Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Chất chủ vận nghịch

Đường cong liều-đáp ứng của chất chủ vận toàn phần, chất chủ vận một phần, chất đối kháng trung tính và chất chủ vận nghịch

Trong dược lý, chất chủ vận nghịchthuốc liên kết với thụ thể như chất chủ vận nhưng gây ra tác dụng dược lý ngược với chất chủ vận.

Chất đối kháng trung tính không có tác dụng dược lý nhưng có thể chẹn tác dụng của chất chủ vận và chất chủ vận nghịch.[1][2]

Điều kiện tiên quyết cho một đáp ứng chủ vận nghịch là thụ thể phải có mức hoạt động cấu thành (còn được gọi là nội tại hoặc cơ bản) khi không có bất kỳ phối tử nào.[3] Đối với một thụ thể, chất chủ vận làm tăng hoạt động trên mức cơ bản, trong khi chất chủ vận nghịch làm giảm hoạt động dưới mức cơ bản.

Hiệu quả của thuốc chủ vận toàn phần theo định nghĩa là 100%, thuốc đối kháng trung tính có hiệu quả 0% và thuốc chủ vận nghịch có hiệu quả <0% (tức là âm).

Ví dụ

Các thụ thể có chất chủ vận nghịch đã được xác định bao gồm các thụ thể GABAA, melanocortin, mu opioid, histamine và beta adrenergic. Các chất chủ vận nghịch nội sinh và ngoại sinh đã được xác định đối với các kênh ion phụ thuộc phối tử và đối với các thụ thể bắt cặp với protein G.

Chất đồng vận nghịch của kênh ion phụ thuộc phối tử

Một ví dụ về thụ thể có hoạt động cấu thành đối với chất chủ vận nghịch đã được xác định là các thụ thể GABAA. Thuốc chủ vận đối với thụ thể GABAA (chẳng hạn như muscimol) tạo ra tác dụng giãn cơ, trong khi chất chủ vận ngược lại có tác dụng kích động (ví dụ: Ro15-4513) hoặc thậm chí gây co giật và lo âu (một số beta-carboline).[4][5]

Chất chủ vận nghịch của thụ thể bắt cặp với protein G

Hai chất chủ vận nghịch nội sinh đã biết là peptit liên quan đến Agouti (AgRP) và peptit truyền tín hiệu Agouti (ASIP). AgRP và ASIP xuất hiện tự nhiên ở người và liên kết lần lượt với các thụ thể melanocortin 4 và 1 (MC4R và Mc1R).[6]

Các chất đối kháng opioid naloxonenaltrexone cũng là chất chủ vận nghịch một phần của thụ thể opioid mu.

Gần như tất cả các thuốc kháng histamine tác động lên thụ thể H1 và thụ thể H2 đều được chứng minh là chất chủ vận nghịch.[7]

Thuốc chẹn beta carvedilol và bucindolol đã được chứng minh là chất chủ vận nghịch ở mức độ thấp đối với các thụ thể beta.[7]

Xem thêm

  • Chất chủ vận
  • Chất đối kháng thụ thể

Tham khảo

  1. ^ Kenakin T (tháng 4 năm 2004). “Principles: receptor theory in pharmacology”. Trends in Pharmacological Sciences. 25 (4): 186–92. doi:10.1016/j.tips.2004.02.012. PMID 15063082.
  2. ^ Nutt D, Stahl S, Blier P, Drago F, Zohar J, Wilson S (tháng 1 năm 2017). “Inverse agonists - What do they mean for psychiatry?”. European Neuropsychopharmacology. 27 (1): 87–90. doi:10.1016/j.euroneuro.2016.11.013. PMID 27955830.
  3. ^ Berg, Kelly A; Clarke, William P (ngày 6 tháng 8 năm 2018). “Making Sense of Pharmacology: Inverse Agonism and Functional Selectivity”. International Journal of Neuropsychopharmacology. 21 (10): 962–977. doi:10.1093/ijnp/pyy071. ISSN 1461-1457. PMC 6165953. PMID 30085126.
  4. ^ Mehta AK, Ticku MK (tháng 8 năm 1988). “Ethanol potentiation of GABAergic transmission in cultured spinal cord neurons involves gamma-aminobutyric acid voltage-gated chloride channels”. The Journal of Pharmacology and Experimental Therapeutics. 246 (2): 558–64. PMID 2457076. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
  5. ^ Sieghart W (tháng 1 năm 1994). “Pharmacology of benzodiazepine receptors: an update”. Journal of Psychiatry & Neuroscience. 19 (1): 24–9. PMC 1188559. PMID 8148363.
  6. ^ Ollmann MM, Lamoreux ML, Wilson BD, Barsh GS (tháng 2 năm 1998). “Interaction of Agouti protein with the melanocortin 1 receptor in vitro and in vivo”. Genes & Development. 12 (3): 316–30. doi:10.1101/gad.12.3.316. PMC 316484. PMID 9450927.
  7. ^ a b Khilnani G, Khilnani AK (2011). “Inverse agonism and its therapeutic significance”. Indian J Pharmacol. 43 (5): 492–501. doi:10.4103/0253-7613.84947. PMC 3195115. PMID 22021988.

Liên kết ngoài

Kembali kehalaman sebelumnya