Colette (tiếng Pháp: [kɔ.lɛt]) là bút danh của Sidonie-Gabrielle Colette - nữ tiểu thuyết gia người Pháp (28.1.1873 – 3.8.1954). Bà nổi tiếng về quyển tiểu thuyết Gigi, mà Alan Jay Lerner và Frederick Loewe đã dựa vào để viết cuốn phim và nhạc kịch mang cùng tên.
Cuộc đời và Sự nghiệp
Thời niên thiếu
Colette là con gái của viên sĩ quan nghỉ hưu Jules-Joseph Colette và vợ là Adèle Eugénie Sidonie "Sido" Colette (nhũ danh Landoy). Colette sinh tại Saint-Sauveur-en-Puisaye, Yonne, vùngBourgogne-Franche-Comté của Pháp.[1] Bà học dương cầm từ khi còn nhỏ và đậu bằng tiểu học với điểm cao về môn toán và chính tả.[2]
Kết hôn lần đầu
Năm 1893, ở tuổi 20, Colette kết hôn với Henry Gauthier-Villars, bút danh Willy - một nhà văn nổi tiếng thông minh dí dỏm - lớn hơn Colette 15 tuổi.[1][3]
Bộ truyện đầu tiên của bà gồm 4 tập mang tên Claudine[4], được viết do sự khuyến khích của Villars.[1]
Quan hệ đồng tính luyến ái
Năm 1906, Colette bỏ ông chồng Gauthier-Villars không chung thủy, tới sống chung với nhà văn nữ người Mỹ Natalie Clifford Barney. Hai người có mối quan hệ tình ái ngắn, và họ giữ tình bạn suốt đời.[5]
Colette vào làm việc ở các phòng nhạc Paris, dưới sự bảo trợ của nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy, hai người có một mối quan hệ đồng tính lãng mạn.[1] Năm 1907, Colette và Morny cùng diễn xuất trong một vở kịch câm tựa đề Rêve d'Égypte (Giấc mộng Ai Cập) ở Moulin Rouge. Nụ hôn trên sân khấu của họ gần như gây ra một cuộc náo loạn[6], đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự[7][8]. Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm, và họ đã không có thể sống chung với nhau một cách công khai, mặc dù mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục trong 5 năm.[9] Trong thời gian này, Colette cũng có quan hệ tình dục khác giới với nhà văn Ý Gabriele d'Annunzio.
Kết hôn lần thứ hai, dan díu với con trai riêng của chồng
Năm 1912, Colette tái kết hôn với Henri de Jouvenel, biên tập viên báo Le Matin (Buổi Sáng) [10]. Họ có một con gái tên là Colette de Jouvenel[6]. Colette de Jouvenel sau này nói rằng mẹ cô không muốn có con nên đã trao cô cho một vú nuôi người Anh chăm sóc, họa hiếm lắm mới tới thăm cô.
Năm 1914, Colette được yêu cầu viết một vở Múa Ba lê cho Opéra national de Paris, và bà đã phác thảo dưới tiêu đề "Divertissements pour ma fille". Tuy nhiên, sau khi bà chọn Maurice Ravel để viết phần nhạc, thì Ravel đã hình dung lại tác phẩm này như một vở opera, và bà cũng đã đồng ý. Năm 1918 Ravel đã nhận được bản lời opera tên L'enfant et les sortilèges của Colette, và ông đã soạn phần nhạc. Bản opera này được trình diễn lần đầu ngày 21.3.1925.[11]
Trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, Colette biến bất động sản của chồng ở Saint-Malo thành một bệnh viện để chữa trị cho những người bị thương, và bà đã được chính phủ Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh hạng Chevalier năm 1920.
Năm 1924 bà và Henri de Jouvenel ly dị, sau một vụ dan díu yêu đương đầy tai tiếng với Bertrand de Jouvenel, 17 tuổi, con trai riêng của chồng.
Kết hôn lần thứ ba
Năm 1935, Colette tái kết hôn với Maurice Goudeket, người chú (bác/cậu) của Juliet Goudeket tự Jetta Goudal[12], và mang tên chính thức là "Sidonie Goudeket". Maurice Goudeket đã xuất bản một quyển sách nói về vợ mình, mang tên Close to Colette: An Intimate Portrait of a Woman of Genius. Bản dịch tiếng Anh được xuất bản năm 1957 bởi Farrar, Straus & Cudahy, New York.
Tiếp tục viết
Năm 1920, Colette xuất bản quyển tiểu thuyết Chéri[1], nói về sự chấm dứt cuộc tình giữa cô điếm hạng sang lớn tuổi đã nghỉ hưu tên là Léa với một chàng trai trẻ được nuông chiều tên là Chéri.[1]. Sau đó bà viết tiếp quyển La Fin de Chéri do nhà Flammarion xuất bản năm 1926. Ngày nay, quyển Chéri được coi là một kiệt tác của Colette, tuy nhiên thời đó quyển này đã gây nhiều tranh cãi, vì khung cảnh câu truyện - giới gái điếm quý phái Paris – và cũng bởi sách này mô tả Chéri theo chủ nghĩa khoái lạc.
Sau quyển Chéri, Colette chuyển sang lĩnh vực thơ xoay quanh Jean Cocteau - người mà sau này là hàng xóm của bà ở Jardins du Palais-Royal. Mối quan hệ và cuộc sống của họ được mô tả sinh động trong các tác phẩm của họ.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Colette vẫn ở lại Paris khi Đức Quốc xã chiếm đóng và tiếp tục viết "bởi vì, bà nói rằng bà phải kiếm sống". Quyển Gigi được viết trong thời gian này và được đặt trong cùng một khung cảnh Belle Epoque như quyển Chéri, đã trở thành một cuốn sách bán chạy bởi vì nó "đưa độc giả ra khỏi mối quan tâm hàng ngày của họ về những thiếu thốn trong thời kỳ chiến tranh và nguy hiểm".[1] Những năm cuối đời, bà phải di chuyển bằng xe lăn, do Goudeket – mà bà gọi là "một vị thánh" – chăm sóc. Năm 1951 bà đã tham dự buổi chiếu ra mắt cuốn phim tài liệu về cuộc sống của mình, và khi chấm dứt cuốn phim, bà đã nói với Goudeket: "Tôi đã có một cuộc sống tươi đẹp biết bao!".
Khi qua đời, Colette đã để lại tổng cộng 50 tiểu thuyết đã xuất bản, trong đó nhiều quyển có những yếu tố tự truyện.
Colette được cho là người có công phát hiện ra một Audrey Hepburn trẻ trung, vô danh - người mà bà đã nhắm chọn để đóng vai chính trong vở kịch Gigi ở sân khấu Broadway. Theo chính Hepburn, thì thời điểm đó cô đang cùng đoàn làm phim Monte Carlo Baby (1952) trú tại một khách sạn ở miền Nam nước Pháp để quay một cảnh ngắn tại địa phương, trong một vai nhỏ được phân công theo hợp đồng. Hepburn lúc đó chưa có tiếng tăm gì. Colette đã tình cờ nhìn thấy Hepburn đi bộ qua tiền sảnh của khách sạn, và ngay lập tức nói với bạn đồng hành của mình: "Đây là Gigi của tôi!".
Một vở nhạc kịch tiền-Broadway, mới được Heidi Thomas chuyển thể (Call the Midwife, Cranford, Upstairs Downstairs) và do Eric D. Schaeffer đạo diễn (Follies, Million Dollar Quartet) sẽ được trình diễn ở Trung tâm Kennedy vào tháng 1 năm 2015.[13]
Bà là người phụ nữ đầu tiên được cử hành lễ quốc táng ở Pháp và được mai táng ở Nghĩa trang Père-Lachaise, Paris - mặc dù bị từ chối các lễ nghi Công giáo do đã ly dị - vì đã có công che giấu các người bạn Do Thái và chồng mình trên tầng gác xép sát mái nhà trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp[14][15].
Nữ ca sĩ kiêm người viết ca khúc Rosanne Cash đã viết ca khúc "The Summer I Read Colette" trong album 10 Song Demo (1996) của mình để tỏ lòng ngưỡng mộ bà.
Truman Capote đã viết truyện ngắn "The White Rose" (1970) về bà.
Năm 2012, la Monnaie de Paris đã phát hành đồng tiền kim loại 10 euro bằng bạc có hình Colette.
Trung tâm nghiên cứu Colette của Pháp có nhiều đề tài liên quan tới cuộc đời của Colette.[1]
Tiến sĩ Jane Gilmour đã viết quyển Colette’s France: Her Lives, Her Loves (Hardie Grant Books), nói về cuộc đời của Colette xuyên suốt các nơi mà bà đã từng sống[1]
Trường Trung học cơ sở Colette là ngôi trường ở Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, có bề dày thành tích trong việc dạy và học không chỉ của quận mà còn của thành phố.[16]
1958: Paysages et Portraits (Nhà xuất bản. Flammarion).
Thư tín
2003: Lettres à sa fille (1916-1953), réunies, présentées et annotées par Anne de Jouvenel, Gallimard, collection Blanche. (Réédition Gallimard, collection Folio (No 4309), 2006).
2009: Lettres à Missy, édition présentée et annotée par Samia Bordji et Frédéric Maget, Paris, Flammarion.
2004: Colette Lettres à Tonton (1942-1947) réunies par Robert D., édition établie par François Saint Hilaire, Éditions Mille et une nuits Colette n°437
2012: Sido, Lettres à Colette, édition présentée et annotée par Gérard Bonal, éditions Phébus.
2014: Un bien grand amour. Lettres de Colette à Musidora, présentées par Gérard Bonal, L'Herne.
Các ấn phẩm khác sau khi qua đời
1992: Histoires pour Bel-Gazou (tập truyện), Nhà xuất bản. Hachette, Minh họa Alain Millerand
2010: Colette journaliste: Chroniques et reportages (1893-1945), inédit. Présentation de G. Bonal et F. Maget.
2011: J'aime être gourmande, présentation de G. Bonal et F. Maget - introduction de G. Martin, coll. Carnets, L’Herne, Paris.
Colette, 1873-1954. Autograph letters signed (6): Paris; Manoir de Rozven par S. Coulomb, Ille-et-Vilaine; and [n.p.], to D. E. Inghelbrecht and Colette Inghelbrecht, 1909-1948 and n.d. are housed at the Pierpont Morgan Library.
2004: Jeanne Augier, Colette et la Belgique, Bruxelles, Racine;
2004: Albine Novarino et Béatrice Mandopoulos, Colette ou la saveur des mots, Paris, Ed. Milan;
2008: Stéphanie Michineau, L'Autofiction dans l’œuvre de Colette, Paris, Publibook;
2009: Colette. Lettres à Missy, édition présentée et annotée par Samia Bordji et Frédéric Maget, Paris, Flammarion;
2011: Colette, dir. Gérard Bonal et Frédéric Maget, coll. Cahiers de L'Herne Bản mẫu:Numéro, Paris, L'Herne;
2011: Françoise Giraudet, Colette, Envois et Dédicaces;
2012: Anne Freadman, The Livres-Souvenirs of Colette: Genre and the Telling of Time, London, Legenda;
2012: Paula Dumont, Les convictions de Colette (Histoire, guerre, politique, condition des femmes) Paris, L'Harmattan.
Tham khảo
^ abcdefghiKoski, Lorna (ngày 27 tháng 12 năm 2013). WWD [Tells Story of Colette's France Tells Story of Colette's France] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
^Thurman, Judith (1999). Secrets of the Flesh: A Life of Colette. New York: Ballantine Books. tr. 36. ISBN0-345-37103-8.
^“Colette”. Kirjasto.sci.fi. ngày 3 tháng 8 năm 1954. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012.
^gồm 4 quyển "Claudine à l'école" (1900), "Claudine à Paris" (1901), "Claudine en ménage" (1902) và "Claudine s'en va" (1903)
^Rodriguez, Suzanne (2002). Wild Heart: A Life: Natalie Clifford Barney and the Decadence of Literary Paris. New York: HarperCollins. tr. 131. ISBN0-06-093780-7.
^(tiếng Anh) Robert Aldrich, Garry Wotherspoon, Who's Who in Gay and Lesbian History Vol.1: From Antiquity to the Mid-Twentieth Century, Routledge, 528 pages (2002), p. 102-103
^(tiếng Anh) Robert Aldrich, Garry Wotherspoon, Who's Who in Gay and Lesbian History Vol.1: From Antiquity to the Mid-Twentieth Century, Routledge, 528 pages (2002), p. 103
^Slide, Anthony. Silent Players:A Biographical and Autobiographical Study of 100 Silent Film Actors and Actresses. University Press of Kentucky, 2002. ISBN 0-8131-2249-X. page 148.