Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Goodbye Lullaby

Goodbye Lullaby
Album phòng thu của Avril Lavigne
Phát hành2 tháng 3 năm 2011 (2011-03-02)
Thu âmTháng 11 năm 2008 – Tháng 10 năm 2010
Thể loạiPop rock[1]
Thời lượng52:12
Hãng đĩaRCA[2]
Sản xuất
Thứ tự album của Avril Lavigne
The Best Damn Thing
(2007)
Goodbye Lullaby
(2011)
Avril Lavigne
(2013)
Đĩa đơn từ Goodbye Lullaby
  1. "What the Hell"
    Phát hành: 7 tháng 1 năm 2011 (2011-01-07)
  2. "Smile"
    Phát hành: 6 tháng 5 năm 2011 (2011-05-06)
  3. "Wish You Were Here"
    Phát hành: 9 tháng 9 năm 2011 (2011-09-09)

Goodbye Lullaby là album phòng thu thứ tư của ca sĩ người Canada Avril Lavigne, phát hành ngày 2 tháng 3 năm 2011, và cũng là sản phẩm cuối cùng của cô với RCA Records. Nó được ra đời sau 4 kể từ album trước The Best Damn Thing (2007), cũng như phải trì hoãn nhiều lần. Bắt đầu công việc ghi âm vào tháng 11 năm 2008, cô đã mất 2 năm để hoàn thiện album, kết thúc vào tháng 10 năm 2010. Goodbye Lullaby mang chủ đề đối phó với những đau thương, vượt qua thời điểm khó khăn và trở nên mạnh mẽ hơn, với những âm thanh của piano và guitar acoustic. Lavigne đã đồng sáng tác tất cả các ca khúc trong album, với 2 bài hát do tự bản thân thực hiện, bên cạnh việc hợp tác với các nhà sản xuất như Max Martin, Shellback, Butch Walker và chồng cũ Deryck Whibley.

Sau khi phát hành, Goodbye Lullaby nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ gọi nó là "một trong những album cá nhân và nội tâm nhất của cô cho đến nay". Album đã lọt vào top 5 tại hơn 15 quốc gia như Mỹ và Canada, trong khi đứng đầu các bảng xếp hạng ở hơn tám quốc gia như Úc, Hy Lạp, Hồng Kông và Nhật Bản.

Ba đĩa đơn đã được phát hành từ album. Đĩa đơn đầu tiên, "What the Hell", phát hành vào ngày 7 tháng 1 năm 2011, và đạt được nhiều thành công trên toàn thế giới; lọt vào top 20 ở Mỹ và Vương quốc Anh, top 10 ở châu Âu và Úc cũng như top 5 ở châu Á. Các đĩa đơn tiếp theo, "Smile" và "Wish You Were Here", đạt những thành công tương đối trên toàn thế giới. Album này cũng bao gồm một phiên bản mở rộng của các đĩa đơn nhạc phim cho bộ phim Alice ở xứ sở thần tiên, "Alice". Lavigne cũng quảng bá album bằng một loạt các buổi biểu diễn trực tiếp, bao gồm The Black Star Tour (2011).

Quá trình sáng tác

Avril Lavigne bắt đầu ghi âm tại phòng thu của riêng mình vào tháng 11-2008 với "Blackstar" ngay sau khi kết thúc The Best Damn Tour giúp quảng bá cho sản phẩm nước hoa của mình – Black Star – với 1 clip ngắn cho quảng cáo. "Black Star" được sáng tác trong một khách sạn ở Malaysia trong chuyến lưu diễn của cô. Jingle-nói đoạn âm quảng cáo- được dần dần viết thành một bài hát đầy đủ, mà Rolling Stone sau đó mô tả là "một bài hát ru được phối âm rất tuyệt vời. Đây cũng là bài hát đầu tiên của album và tên cả album cũng ảnh hưởng từ đây.

"Tôi có đủ những điều kiện để hoàn tất công việc, nhưng có một số người tỏ vẻ không quan tâm, bơi vì họ muốn tôi viết những thứ *** vớ vẩn."

— Avril Lavigne-Entertainment Weekly-

Trước tiên là ghi âm với các nhạc cụ đơn giản như acoustic guitar, sau đó mới bổ sung thêm vào nên có thể coi Album mang thiên hướng acoustic. Lavigne đã nói rằng cô đã rất thích phong cách này và thực sự cảm thấy nó đã được dành nhiều thời gian cho giọng hát, biểu diễn cũng như rung động, cảm xúc. Lavigne chủ yếu thu âm tại chính phòng thu của mình. Cô cũng dùng nhiều piano hơn và nói rằng "piano thể hiện được nhiều hơn cảm xúc của mình. Nó đưa tôi đến những cảm xúc một cách khác hơn so với guitar.". Vào tháng 7 năm 2009, cô đã hoàn thành được 9 bài hát, trong đó có:" Fine", "Everybody Hurts" and "Darlin" ". Một số bài được viết từ thời cô còn là thiếu niên như " Darlin" đã được viết khi cô mới 15 tuổi và sống ở Napanee, Ontario.

Các bài hát đã được tiết lộ trong đó có facebook của cô vào ngày 21 tháng 12 năm 2010, sau một số đã được công bố trước đó. Và "4 Real","Goodbye" là hai bài hát được viết và sản xuất bởi chính Lavigne. Các bản nhạc còn lại được sáng tác bởi Lavigne hoặc đồng sáng tác với các cộng tác viên lâu năm của Evan Taubenfeld, Butch Walker và Max Martin. Cô nói rằng giọng hát là thứ quan trọng nhất của cô ở album này:" Có thể giọng hát sẽ không được quan tâm nhiều trong cả bản nhạc, những cảm xúc, tính cách, chất lượng….chưa được quan tâm, tôi muốn mình chú trọng vào giọng hát."

Về Album

Avril Lavigne miêu tả album như là về "cuộc sống": "Thật dễ dàng khí làm một bài hát pop-bashing, nhưng để ngồi xuống và viết về những điều gần gũi, đã trải qua lại có cảm giác hoàn toàn khác biệt".

Album đánh dấu sự trở lại của một Avril trưởng thành hơn với các bài hát thiên về acoustic, ngoại trừ single được công bố duy nhất là "What the Hell". Avril nói rằng album này hoàn toàn khác so vơi các album trước:" Tôi đã trưởng thành hơn, tôi nghĩ đi qua âm nhạc của tôi, nó không phải là rock-pop và đó là một chút êm dịu và nó sâu sắc. Đối với album này tôi muốn thực sự hát, thực sự…Tôi chỉ muốn có sự im lặng xung quanh, có những bản acoustic và nó phải thực sự truyền cảm".

Trong tháng 11 năm 2010, nhà sản xuất người Anh là Alex Da Kid, người đã làm việc với Avie từ tháng 8-2010 nói rằng trong bài hat sẽ có một vài âm thanh hip-hop:" chúng tôi đã có một vài yếu tố hip-hop cũng như một vài yếu tố pop-rock."

Lavigne miêu tả đĩa đơn đầu tiên: "What the Hell" là một thông điệp về cá nhân về tự do, là bài hát pop nhất và ít cá nhân nhất trong sáng tác. Một vài bài hát khác như "Stop Standing There" được miêu tả như là "cảm giác của cô gái những năm đầu thập niên 50.", "Smile" để thể hiện lòng biết ơn đặc biệt trong cuộc sống của cô, "Push" là về những mối quan hệ và "Wish You Were Here" cho thây một Avie dễ bị tổn thương, "Goodbye" là về những thay đổi trong cuộc sống. Về "Everybody Hurts": "Nó có sự khác biệt nhưng nó vẫn là con người tôi".

Phát hành

Cả album và single đều bị dời lại nhiều lần, từ lần dự kiến vào 17 tháng 11 năm 2009. Sau đó vào tháng giêng 2010 thì Lavigne nói Album sẽ ra vào tháng 6 và trước đó 2 tháng sẽ là single. Sau đó Avril nói rằng album mới có vẻ quá "nghiêm trang" và cần quay lại phòng thu, cần một vài bài hát lạc quan vui vẻ. Tháng 8-2010, Lavigne trở lại phong thu Henson Recording Studios với nhà sản xuất Alex Da Kid. Ở đây cô bị viêm họng, là lý do toàn bộ thành viên phải đeo khẩu trang khi làm việc bất chấp lời khuyên của bác sĩ:" tôi đã không thể hát đến cuối cùng trong 48 giờ vì nó có thể làm tổn thương vĩnh viễn giọng của cô theo như lời bác sĩ. Bác sĩ nói không, nhưng tôi vẫn hát.", "Tôi cố gắng với những thứ mới, và tôi đã tìm ra". Lavigne cũng nói rằng nó đã đủ cho thêm hai bản nhạc nữa.

"Tôi đã viết những bài của riêng tôi, nên tôi phải mất nhiều thời gian hơn và tôi phải sống cuộc sống của tôi để có được nguồn cảm hứng."

— Avril Lavigne - Avril Lavigne Bandaids-

Tháng 10-2010 Avril Lavigne xuất hiện ở Maxim để thỏa thuận cho tháng 11, trong cuộc phỏng vấn cô đã tiết lộ đã hoàn thành "Goodbye Lullaby" trong hai năm rưỡi, sau đó công bố là một năm với sự chậm trễ của hãng phát hành.

Đĩa đơn

Lavigne dự kiến ra mắt đĩa đơn thứ nhất "What the Hell" ở buổi Dick Clark's New Year's Rockin' Eve vào đêm giao thừa 30 tháng 12. Một ngày sau đó, đĩa đơn được phát hành miễn phí trên FaceBook của cô. "What the Hell" được phát hành trực tuyến vào mùng 7 tháng 1. Video cho đĩa đơn này được phát hành luôn trong tháng 1 năm 2011.

Avril Lavigne hỏi các fan của cô trên Twitter về đĩa đơn tiếp theo, với hai sự lựa chọn là "Push" và "Smile", và cuối cùng "Smile" trở thành đĩa đơn thứ hai được chọn để phát hành. Vào tháng 7 năm 2011, Lavigne cho biết "Wish You Were Here" là đĩa đơn thứ ba và cũng là đĩa đơn cuối cùng của Goodbye Lullaby.

Vào 1 tháng 3 năm 2012, Lavigne phát hành video cho ca khúc cuối cùng của album: "Goodbye". Video được đạo diễn bởi Mark Liddell, được phát hành như một lời cảm ơn đối với các fan của cô. Video được quay ở Chateau Marmont thuộc Hollywood. Ngoài ra, "Push" được phát hành như một đĩa đơn mở rộng duy nhất ở Nhật Bản.

Danh sách

STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Black Star"Avril LavigneDeryck Whibley1:34
2."What the Hell"Lavigne, Max Martin, ShellbackMax Martin, Adam Lambert3:40
3."Push"Lavigne, Evan TaubenfeldWhibley3:01
4."Wish You Were Here"Lavigne, Martin, ShellbackMartin, Shellback3:45
5."Smile"Lavigne, Martin, ShellbackMartin, Shellback3:29
6."Stop Standing There"LavigneButch Walker3:27
7."I Love You"Lavigne, Martin, ShellbackMartin, Shellback4:01
8."Everybody Hurts"Lavigne, TaubenfeldWhibley3:41
9."Not Enough"Lavigne, TaubenfeldWhibley4:18
10."4 Real"LavigneAvril Lavigne3:28
11."Darlin'"LavigneWhibley3:50
12."Remember When"LavigneWhibley3:29
13."Goodbye"LavigneLavigne4:29
14."Alice" (hidden track)LavigneWalker5:00
Ca khúc tặng kèm ở phiên bản Nhật
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
15."Knockin' on Heaven's Door"Adam LambertLavigne2:52
Ca khúc tặng kèm ở bản Đặc biệt
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
15."What the Hell" (acoustic)Lavigne, Martin, ShellbackShellback3:40
16."Push" (acoustic)Lavigne, TaubenfeldWhibley2:46
17."Wish You Were Here" (acoustic)Lavigne, Martin, ShellbackShellback3:45
18."Bad Reputation"Ritchie Cordell, Joan Jett, Marty Joe Kupersmith, Kenny LagunaWhibley2:42
Ca khúc tặng kèm ở bản Đặc biệt trên iTunes
STTNhan đềSáng tácThời lượng
19."What the Hell" (Bimbo Jones remix)Lavigne, Martin, Shellback4:09
20."The Making of Goodbye Lullaby" (video) 28:14
Ca khúc tặng kèm phiên bản Cao cấp ở Nhật
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
15."What the Hell" (acoustic)Lavigne, Martin, ShellbackShellback3:40
16."Push" (acoustic)Lavigne, TaubenfeldWhibley2:46
17."Wish You Were Here" (acoustic)Lavigne, Martin, ShellbackShellback3:45
18."Bad Reputation"Ritchie Cordell, Joan Jett, Marty Joe Kupersmith, Kenny LagunaWhibley2:42
19."What the Hell" (Bimbo Jones remix)Lavigne, Martin, Shellback 4:09
20."What the Hell" (instrumental)Lavigne, Max Martin, ShellbackMax Martin, Shellback3:39
21."Wish You Were Here" (instrumental)Lavigne, Martin, ShellbackMartin, Shellback3:45
DVD tặng kèm bản Đặc biệt
STTNhan đềThời lượng
1."Introduction" 
2."Avril Talks About the Making of Goodbye Lullaby" 
3."Avril in the Studio" 
4."Goodbye Lullaby... The Songs" 
5."First Band Rehearsals for 'What the Hell'" 
6."Acoustic Studio Session" 
7."Album Cover Photo Shoot" 
DVD tặng kèm phiên bản cao cấp ở Nhật
STTNhan đềThời lượng
1."Making of Goodbye Lullaby" 
2."What the Hell (4Music live performance)" 
3."Smile (4Music live performance)" 
4."Push (4Music live performance)" 
5."Wish You Were Here (4Music live performance)" 
6."Girlfriend (4Music live performance)" 
7."What The Hell (Video âm nhạc)" 
8."Smile (Video âm nhạc)" 
9."Wish You Were Here (Video âm nhạc)" 
10."What The Hell (Hậu trường video âm nhạc)" 
11."Smile (Hậu trường video âm nhạc)" 

Xếp hạng

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[34] Vàng 35.000^
Brasil (Pro-Música Brasil)[35] Bạch kim 40,000*
Canada (Music Canada)[36] Bạch kim 80,000^
Czech Republic[36] Vàng 2,500 
Hồng Kông (IFPI Hồng Kông)[36] Bạch kim 15,000*
Indonesia[36] Vàng 5,000 
Ý (FIMI)[37] Vàng 30.000*
Nhật Bản (RIAJ)[38] Bạch kim 400,000^
México (AMPROFON)[39] Vàng 30.000^
Nga (NFPF)[40] Vàng 5.000*
Singapore (RIAS)[36] Vàng 5,000*
Hàn Quốc (KMCA)[41] Bạch kim 10,000^
Taiwan (RIT)[42] 5× Bạch kim 50,000 
Anh Quốc (BPI)[43] Bạc 75,000 
Venezuela (APFV)[44] Vàng 5,000 

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

  1. ^ Copsey, Robert (ngày 7 tháng 3 năm 2011) Music – Album Review: Avril Lavigne – Goodbye Lullaby Lưu trữ 2015-07-03 tại Wayback Machine Digital Spy. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011
  2. ^ “Goodbye Lullaby – CD”. Best Buy. ngày 5 tháng 3 năm 2011.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n “Australian-Charts.com – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby”. ARIA Charts. Hung Medien / hitparade.ch. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
  4. ^ “Canadian Albums: Week of March 26, 2011”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2011.
  5. ^ “ČNS IFPI”. IFPI Czech Republic. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2011.
  6. ^ “Musicline.de – Chartverfolgung – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby” (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
  7. ^ “Top 75 Combined Repertoire (Albums)”. ifpi.gr. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
  8. ^ “MAHASZ – Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége”. mahasz.hu. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2011.
  9. ^ “GFK Chart-Track”. chart-track.co.uk. ngày 10 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
  10. ^ “Japan Billboard Top Albums”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2011.
  11. ^ “2011年03月第2週の邦楽アルバムランキング情報”. Oricon. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
  12. ^ “Mexico Top 100” (PDF). AMPROFON. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  13. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2015.
  14. ^ “Oficjalna lista sprzedaży”. OLiS. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
  15. ^ “Associação FonogrĂĄfica Portuguesa”. Agence France-Presse. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  16. ^ “Lenta.ru: Музыка: Лепс и Ляпис” (bằng tiếng Nga). lenta.ru. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2011.
  17. ^ “Official Scottish Albums Chart Top 100”. Truy cập 8 tháng 10 năm 2015.
  18. ^ “Val 202 – Slo Top 30”. Rtvslo.si. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  19. ^ “검색결과 – Avril Lavigne” [Search Results – Avril Lavigne]. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Industry Association. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.
  20. ^ “:: 가온차트와 함께하세요::”. Gaonchart.co.kr. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  21. ^ “G-Music 風雲榜 (西洋榜)”. G-music.com.tw. ngày 29 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  22. ^ a b “Top 40 Official UK Albums Archive: 19th March 2011”. The Official Charts Company. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2011.
  23. ^ Caulfield, Keith (ngày 16 tháng 3 năm 2011). “Lupe Fiasco's 'Lasers' Lands at No. 1 on Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2011.
  24. ^ http://www.aria.com.au/pages/documents/ARIAEOYChart2011.pdf
  25. ^ “Video”. YouTube.
  26. ^ “Best selling albums in 2011 of Hungary”. Mahasz. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
  27. ^ “FIMI – Federazione Industria Musicale Italiana – Benvenuto!”. Fimi.it. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2015.
  28. ^ “年間ランキング特集『AKB48が5作ミリオン突破の快挙!2011年オリコン年間CD&DVDランキングを大発表!』-ORICON STYLE ミュージック”. Oricon.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2015.
  29. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2015.
  30. ^ “Культура: Шансон года”. Lenta.ru.
  31. ^ Steffen Hung. “Schweizer Jahreshitparade 2011”. hitparade.ch.
  32. ^ “卡卡《天生完美》踢走愛黛兒 登寶島唱銷王 | 蘋果日報”. Tw.nextmedia.com. ngày 28 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2015.
  33. ^ “Best of 2011: Billboard 200 Albums”. Billboard. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  34. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  35. ^ “Chứng nhận album Brasil – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil.
  36. ^ a b c d e “Goodbye Lullaby”. Sony Music. tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2015.
  37. ^ “Chứng nhận album Ý – Avril – Goodbye Lullaby” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Goodbye Lullaby" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  38. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2011年3月 ở menu thả xuống
  39. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Avril Lavigne ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Goodbye Lullaby ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  40. ^ “Russian album certifications – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby” (PDF). National Federation of the Phonogram Producers (NFPF) (bằng tiếng Nga). lenta.ru. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2011.
  41. ^ “Goodbye Lullaby”. Gaon Chart. tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2015.
  42. ^ “Album certifications – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby”. Recording Industry Foundation in Taiwan (RIT). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2012.
  43. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạc' ở phần Certification. Nhập Goodbye Lullaby vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  44. ^ “Album certifications – Avril Lavigne – Goodbye Lullaby”. (APFV). Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2011.

Liên kết ngoài

Read other articles:

هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (أغسطس 2020) حامد الكمالي معلومات شخصية الاسم الكامل حامد إسماعيل محمد الكمالي الميلاد 6 نوفمبر 1992 (العمر 31 سنة)الإمارات العربية المتحدة الطول 1.85 م (6 قدم 1 بوصة) مرك

 

 

Cette liste regroupe les guerres et conflits ayant vu la participation de la Croatie. Voici une légende facilitant la lecture de l'issue des guerres ci-dessous : Victoire croate Défaite croate Autre résultat (par exemple un traité ou une paix sans un résultat clair, un statu quo ante bellum, un résultat inconnu ou indécis) Conflit en cours Début Fin Nom du conflit Belligérants Lieu Issue Alliés (y compris la Croatie) Ennemis 17 août 1990 12 novembre 1995 Guerre de Croatie Croa...

 

 

Не плутати з Компліментарність. У Вікіпедії є статті про інші значення цього терміна: Комплементарність. Комплементарність — чітка відповідність нуклеотидів між молекулами ДНК. Ця стаття обговорює загальний принцип комплементарності. Див. також статтю Комплементарн

この項目では、ホッカイドウ競馬の古馬による重賞競走について説明しています。2歳馬による重賞競走については「ブリーダーズゴールドジュニアカップ」をご覧ください。 ブリーダーズゴールドカップ 第21回ブリーダーズゴールドカップ開催国 日本主催者 北海道競馬場 門別競馬場創設 1989年10月10日2023年の情報距離 ダート2000m格付け JpnIII賞金 1着賞金3100万円出走条�...

 

 

Matt Bomer Matt Bomer en 2015Información personalNombre de nacimiento Matthew Staton BomerNacimiento 11 de octubre de 1977 (46 años)Webster Groves, Misuri, Estados UnidosNacionalidad EstadounidenseLengua materna Inglés estadounidense FamiliaMadre Elizabeth Macy Staton Cónyuge Simon Halls (matr. 2011)Hijos 3EducaciónEducado en Universidad Carnegie Mellon Información profesionalOcupación ActorAños activo desde 2000Premios artísticosGlobos de Oro Mejor actor de reparto en ...

 

 

American physicist Daniel FriedanBornDaniel Harry Friedan (1948-10-03) October 3, 1948 (age 75)New York City, USOccupationTheoretical physicist at Rutgers UniversityKnown forString theory, two-dimensional conformal field theory, quantum gravitySpouseRagnheiður GuðmundsdóttirChildren3ParentBetty Friedan (mother)AwardsLars Onsager Prize (2010) Daniel Harry Friedan (born October 3, 1948)[1] is an American theoretical physicist and one of three children of the feminist author...

Array of partial sums of the binomial coefficients Derivation of Bernoulli's triangle (blue bold text) from Pascal's triangle (pink italics) Bernoulli's triangle is an array of partial sums of the binomial coefficients. For any non-negative integer n and for any integer k included between 0 and n, the component in row n and column k is given by: ∑ p = 0 k ( n p ) , {\displaystyle \sum _{p=0}^{k}{n \choose p},} As the numbers of com­po­si­tions of n +1 into k ...

 

 

بترا كولينز (بالإنجليزية: Petra Collins)‏  معلومات شخصية الميلاد 21 ديسمبر 1992 (31 سنة)  تورونتو  مواطنة كندا  الحياة العملية المهنة مصورة  المواقع الموقع الموقع الرسمي  IMDB صفحتها على IMDB  تعديل مصدري - تعديل   بترا كولينز هي مصورة كندية، ولدت في 21 ديسمبر 1992 في تورونت

 

 

German psychiatrist Gustav Aschaffenburg (1866-1944) Gustav Aschaffenburg (May 23, 1866 – September 2, 1944) was a German psychiatrist born in Zweibrücken. In 1890 he received his medical doctorate from the University of Strasbourg with a thesis on delirium tremens. Later he worked as an assistant to Emil Kraepelin at the psychiatric university clinic in Heidelberg, with whom he later extensively wrote about Haltlose personality disorder. He then practiced psychiatric medicine at the U...

1999 Filipino film Ekis: Walang TatakasFilm posterDirected byErik MattiScreenplay byErik MattiJet OrbidaCheccs OsmeñaStory byErik MattiMark QuerubinProduced byVincent del Rosario IIIVeronique del Rosario-CorpusStarringSunshine CruzAlbert MartinezCinematographyRolly ManuelEdited byDanny GloriaMusic byJaime FabregasProductioncompanyViva FilmsDistributed byViva FilmsRelease date July 28, 1999 (1999-07-28) Running time110 minutesCountryPhilippinesLanguageFilipino Ekis: Walang Tata...

 

 

British television series PortersGenreSitcomCreated byDan SeftonWritten by Dan Sefton Camilla Whitehill Lee Coan Directed byVadim JeanStarring Edward Easton Susan Wokoma Claudia Jessie Rutger Hauer Daniel Mays Country of originUnited KingdomOriginal languageEnglishNo. of series2No. of episodes9 (list of episodes)ProductionRunning time30 minutesProduction companyDancing Ledge ProductionsOriginal releaseNetworkDaveRelease20 September 2017 (2017-09-20) –19 April 2019 (2019-04-19...

 

 

Wali Kota LhokseumawePetahanaSuaidi Yahyasejak 5 Juli 2012Masa jabatan5 tahunPejabat pertamaDrs. H. Rachmatsyah MMSitus webSitus Resmi Kota Lhokseumawe Berikut ini adalah daftar pejabat Wali Kota Lhokseumawe dari masa ke masa. No. Wali Kota Awal menjabat Akhir menjabat Prd. Ket. Wakil Wali Kota Drs. Rachmatsyah, M.M. 2 November 2001 28 Agustus 2004 Pj. Drs. H. Marzuki Amin, M.M. 28 Agustus 2004 29 Maret 2006 Pj. Drs. Rachmatsyah, M.M. 29 Maret 2006 5 Maret 2007 Pj. 1 Munir Usman 5 Maret ...

Old Geelong Post Office The current Geelong Post Office opened in 1994 and is located on the corner of Gheringhap and Little Myers Streets. The original post office was located on the corner of Ryrie and Gheringhap Streets. The Geelong Telegraph Station was located next door. History The first post office in Geelong, which opened around June 1840, was in a corner of a store in Barwon Terrace, South Geelong.[1] After August 1842, the Geelong Advertiser office was used as a post office....

 

 

Never Say Die Đạo diễnGeorge CroneSản xuấtDouglas MacLeanTác giảWilliam Collier Sr. (kịch) William H. Post (kịch) Raymond Griffith Wade Boteler Raymond CannonDiễn viênDouglas MacLean Lillian Rich Helen FergusonQuay phimJack MacKenzieHãng sản xuấtDouglas MacLean Productions Phát hànhAssociated ExhibitorsCông chiếu31 tháng 8 năm 1924Độ dài60 phútQuốc gia Hoa KỳNgôn ngữCâmNever Say Die là một bộ phim hài câm của Mỹ năm 1924 do George C...

 

 

Інститут електронної фізики Національної академії наук УкраїниАбревіатура ІЕФ НАН УКРАЇНИТип науково-дослідний інститутЗасновано 1992[1]Галузь 72.19 Дослідження й експериментальні розробки у сфері інших природничих і технічних наукКраїна  УкраїнаРозташування Ужг...

Belief system that venerates the essential characteristics that are affixed to Lucifer William Blake's illustration of Lucifer as presented in John Milton's Paradise Lost Luciferianism is a belief system that venerates the essential characteristics that are affixed to Lucifer, the name of various mythological and religious figures associated with the planet Venus. The tradition usually reveres Lucifer not as the devil, but as a destroyer, a guardian, liberator,[1] light bringer or gui...

 

 

Anglo-Persian Oil Companyشرکت نفت ایران و انگلیس英伊石油公司1938年,位於阿巴丹的煉油廠公司類型公用事業、能源公司結局1954年被英國石油公司(BP)取代後繼機構英國石油公司(BP)成立1908年结束1954年總部 伊朗帝國德黑蘭产业能源產品石油 位於德黑蘭的前英伊石油公司大樓。現在為外交事務處3號辦公室(Foreign Ministry No.3)。 英波石油公司(波斯語:شرکت نفت ایر...

 

 

Painting by Edgar Degas A Cotton Office in New OrleansArtistEdgar DegasYear1873Mediumoil on canvasDimensions73 cm × 92 cm (29 in × 36 in)LocationMusée des beaux-arts de Pau, Pau, France A Cotton Office in New Orleans, also known as Interior of an Office of Cotton Buyers in New Orleans and Portraits in an Office (New Orleans), is an oil painting by Edgar Degas. Degas depicts the interior of his maternal uncle Michel Musson's cotton firm in New Orlea...

Este artículo o sección necesita referencias que aparezcan en una publicación acreditada.Este aviso fue puesto el 9 de noviembre de 2015. Iglesia de San Pedro LocalizaciónPaís España EspañaComunidad Andalucía AndalucíaProvincia Córdoba CórdobaLocalidad Priego de CórdobaCoordenadas 37°26′23″N 4°11′39″O / 37.43962151, -4.194048805[editar datos en Wikidata] Parece ser que la antigua ermita de San Pedro de Priego de Córdoba, antes me...

 

 

2007 live album by Doomriders & BorisLong Hair and TightsLive album by Doomriders & BorisReleased2007RecordedOctober 31, 2006GenreStoner rockLength53:42LabelDaymare RecordingsDoomriders chronology Not of This World(2006) Long Hair and Tights(2007) Darkness Come Alive(2009) Boris chronology Walrus/Groon(2007) Long Hair and Tights(2007) Damaged split EP(2007) Long Hair and Tights is a split live album by Japanese band Boris and U.S. band Doomriders. It was released in 2007 by Da...

 

 

Kembali kehalaman sebelumnya