Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Hatsune Miku

Hatsune Miku
Phát triển bởiCrypton Future Media
Phát hành lần đầu31 tháng 8 năm 2007
Phiên bản ổn định
Hatsune Miku NT (New Type) / 27 tháng 11 năm 2020
Hệ điều hànhMicrosoft Windows, macOS
Nền tảngPC
Ngôn ngữ có sẵn
  • Tiếng Nhật
  • Tiếng Anh
  • Tiếng Trung
Thể loạiChương trình Tổng hợp Giọng hát
Giấy phépĐộc quyền (giọng nói Vocaloid/phần mềm)
Creative Commons BY-NC (thiết kế nhân vật)[1]
Websiteec.crypton.co.jp/pages/prod/vocaloid/cv01

Hatsune Miku (初音 (はつね) ミク?), mã chính thức là CV01,[2][3] là một phần mềm thư viện giọng hát Vocaloid được phát triển bởi Crypton Future Media, sử dụng kết hợp với chương trình Vocaloid 2 của Yamaha Corporation. Cái tên Hatsune Miku được tạo ra bằng cách ghép các từ tiếng Nhậtđầu tiên ( hatsu), âm thanh ( ne), và tương lai (ミク miku[a]). Điều này tượng trưng cho ý muốn của Crypton rằng cô sẽ là "âm thanh đầu tiên đến từ tương lai". Cô là Vocaloid thứ 2 được phát hành cho hệ thống Vocaloid 2 và là Vocaloid đầu tiên sử dụng phiên bản tiếng Nhật của hệ thống này. Giọng cô được tạo bởi một diễn viên lồng tiếng của Nhật tên là Saki Fujita và đã được chỉnh sửa. Hatsune Miku từng biểu diễn trên sân khấu với công nghệ Hologram.[5]

Phát triển

Sau khi có được công nghệ Vocaloid 2 của Yamaha Corporation, Crypton Future Media đã bắt đầu phát triển Vocaloid thứ ba của họ. Giọng của Hatsune Miku được lấy từ diễn viên lồng tiếng Saki Fujita đã qua chỉnh sửa và chia ra các âm riêng biệt. Các âm này sau đó được điều chỉnh cao độ và trường độ rồi nối lại thành từ và câu hoàn chỉnh. Cao độ của các âm được điều chỉnh bởi chính chương trình tổng hợp Vocaloid 2, với giao diện của một dãy phím đàn. Crypton phát hành nhân vật đầu tiên trong sêri "Character Vocal Series", Hatsune Miku,[6] vào ngày 31/8/2007, với ý tưởng rằng Miku sẽ là "một thần tượng ảo trong một tương lai gần mà tại đó những bài hát bị quên lãng".[7]

Phần mềm bổ sung

Vào 30/4/2010, bản nâng cấp của Hatsune Miku được phát hành, gọi là "Hatsune Miku Append", gồm 6 thư viện giọng khác của Miku là Soft (nhẹ nhàng, thanh nhã), Sweet (ngọt ngào, trẻ con), Dark (già dặn, trầm lắng), Vivid (tươi sáng), Solid (to, rõ ràng), và Light (ngây thơ, thánh thiện).[8] "Miku Append " được tạo ra để mở rộng thư viện giọng hát của Miku, và cần chương trình gốc (Vocaloid 2) được cài đặt trên máy tính trước.[9] Đây là lần đầu tiên một Vocaloid có sự phát hành như thế này, và nhiều phiên bản Append của các Vocaloid khác được Crypton phát triển sau đó.[10]

Một voicebank tiếng Anh cho Hatsune Miku đã được công bố vào năm 2011 và sẽ được phát hành vào cuối năm 2012. Tuy nhiên, quyết định chuyển sang Vocaloid 3 và các vấn đề về phát âm tiếng Anh đã làm trì hoãn việc phát hành.[11] Cuối cùng nó đã được phát hành vào ngày 31 tháng 8 năm 2013 thông qua phân phối kỹ thuật số.

Thư viện voicebank tiếng Nhật Hatsune Miku Vocaloid 3 được phát hành vào ngày 26 tháng 9 năm 2013. Nó chứa các bản cập nhật cho tất cả các giọng hát Vocaloid 2 trước đó ngoại trừ Vivid và Light. Chúng sau đó đã được phát hành riêng lẻ, mặc dù ban đầu chúng được cung cấp cho bất kỳ ai đã sở hữu Hatsune Miku, Hatsune Miku Append và Hatsune Miku V3. Sau khi được nhập vào Vocaloid4, tất cả giọng hát Vocaloid3 Hatsune Miku có thể sử dụng hệ thống Tổng hợp chéo (XSY) mới được xây dựng cho phương tiện mới của Vocaloid 3. Giọng nói cũng được nhập vào một thiết bị có tên Pocket Miku, phát hành vào ngày 3 tháng 4 năm 2014.[12]

Hatsune Miku đã nhận được bản cập nhật cho Vocaloid 4 của Yamaha dưới tên Hatsune Miku V4x.[13] Nó sử dụng hệ thống EVEC mới cho Piapro Studio (ピ ア) - một VSTi được sản xuất và phát triển bởi Crypton trước đó, tuy nhiên mối quan hệ với Yamaha vẫn tiếp tục phát triển. EVEC bao gồm các nguyên âm được ghi lại. Cùng với phụ âm, có thể đạt được một giọng hát khác. Hai âm giọng được bao gồm trong hệ thống EVEC: Power và Soft. Cùng với hệ thống EVEC mới, các lỗi âm vị được tìm thấy trong các voicebank V2 và V3 của Miku sẽ được sửa cho phép thao tác giọng nói của Miku dễ dàng hơn. Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2016, Hatsune Miku V4X / V4 English đã được phát hành.

Các chương trình khác

Để hỗ trợ đồ họa 3D, chương trình MMD được phát triển như một chương trình bởi một lập trình viên độc lập. Chương trình miễn phí này đã tạo một sự bùng nổ số các nhân vật được thiết kế bởi fan, cũng như đẩy mạnh quảng bá cho chính những bài hát Vocaloid.[14] Một chương trình khác được phát triển là VocaListener, một phần mềm cho phép tạo ra những bài hát Vocaloid giống y như thật.

Một voicebank tiếng Trung đã được phát hành vào tháng 9 năm 2017, Hatsune Miku trở thành sản phẩm Vocaloid ba thứ tiếng đầu tiên. Tên tiếng Trung của cô là 初音未来 (pinyin: Chūyīn Wèilái); 未来 là các ký tự Trung Quốc cho tên Tiếng Nhật, Miku.

Tháng 12/2016, voicebank tiếng Trung của cô đã chính thức được giới thiệu tại 2 buổi concert của sự kiện Miku Expo In China 2016 được tổ chức ở Thượng HảiBắc Kinh và đã được chính thức phát hành vào tháng 8/2017.

23/12/2019, phát hành bản cập nhật Hatsune Miku V4 Chinese Update, khắc phục những lỗi ở bản Miku V4C cũ.

Ngày 25/12/2019, Công ty Crypton Future Media đã có thông báo chính thức về phiên bản mới của phần mềm tổng hợp giọng hát Hatsune Miku với tên gọi là Hatsune Miku NT (New Type). Cụ thể đây là phiên bản đầu tiên của Miku sẽ không chạy trên nền tảng Vocaloid như trước nữa và sẽ được bày bán vào khoảng cuối tháng 8/2020 (với bản beta ra mắt vào giữa tháng 3/2020).[15]

Tiếp thị

Komatti-Mirai EV, 2013 TT Zero

Mặc dù được phát triển bởi Yamaha, phần tiếp thị của từng Vocaloid được để lại cho các studio tự thực hiện. Yamaha thực hiện vai trò tiếp thị chính phần mềm Vocaloid, tiêu biểu cho hoạt động này là robot HRP-4C đã được giới thiệu là sự nối tiếp ba Vocaloid – Hatsune Miku, Megpoid và trình Vocaloid thử nghiệm của Crypton "CV- 4Cβ"- như một phần của sự quảng cáo cho cả Yamaha và HRP-4C ở CEATEC vào năm 2009. Những tờ tạp chí ở Nhật như tạp chí DTM giữ vai trò giới thiệu và quảng bá các Vocaloid đến các Vocaloid fans. Tờ báo đã từng đề cập đến nhiều Vocaloid như Hatsune Miku, cặp đôi Kagamine Rin và Kagamine Len, và Megurine Luka, đồng thời in lên nhiều ấn phẩm của họa sĩ Kei và thông báo những thông tin mới nhất về Vocaloid.

Crypton đã đóng góp rất nhiều trong việc quảng cáo những nhân vật của họ, đơn cử như Hatsune Miku, đã có nhiều sự liên quan đến mẫu GT300 của dòng xe Super GT từ năm 2008 với sự hỗ trợ của Good Smile Racing (một nhánh của Good Smile Company), chủ yếu hoạt động ở những sản phẩm liên quan đến xe, đặc biệt là các miếng dán cho xe itasha(những chiếc xe được dán những hình ảnh của nhân vật anime).Mặc dù Good Smile Company không phải là công ty đầu tiên mang văn hóa anime đến với dòng Super GT, công ty này tách biệt ra bởi việc nhấn mạnh vào itasha.

Good Smile Racing

Từ giải đấu năm 2008, đã có 3 đội đua nhận quảng cáo của Good Smile Racing, và sơn lại xe của họ thành các hình ảnh của Vocaloid:

  • Studie, tham gia vào giải năm 2008 và 2009 sử dụng xe BMW Z4 E86. Xe của họ được sơn hình của Hatsune Miku và nhiều phiên bản khác của Miku ở một số giải đua năm 2009
  • Đội MOLA, sử dụng xe Nissan 350Z, và họ nhận quảng cáo ở cuộc đua cuối của giải năm 2008. Hình của Kagamine Rin và Len được thêm vào xe của họ. Vòng đua ở Fuji thực tế là cuộc đua duy nhất của FIA với hai chiếc itasha đặc biệt cùng tham dự
  • Đội COX, tham gia vào giải 2010, sử dụng xe Porsche 996 GT3 RSR (và sẽ sử dụng chiếc Porsche 997 GT3-R). Xe của họ được in hình ảnh phiên bản Racing Miku (một phiên bản chính thức của Miku trong bộ Race Queen màu cam)

Song song với việc lấn sang những chiếc xe GT, Crypton còn xây dựng trang web piapro. Crypton thậm chí bắt đầu quảng bá Miku cho Toyota CorollaGoogle Chrome. Trong năm 2011 và 2012, tại Sapporo Snow Festival, một chiếc xe điện đã được in hoàn toàn bởi hình ảnh của Hatsune Miku từ trong ra ngoài, và với lời công bố được thu lại bởi Saki Fujita.

Doanh thu

Doanh thu ban đầu của Hatsune Miku cao đến nỗi Crypton không thể theo kịp nhu cầu.[16] Trong 12 ngày đầu phát hành, gần 30000 bản đã được bán ra, được gọi là "con số không tưởng" bởi Wataru Sasaki - người chịu trách nhiệm lên kế hoạch và tạo ra các "bất ngờ" của công ty. Vào tháng 12 năm 2007, Amazon.co.jp thông báo doanh thu của Hatsune đoạt hơn 57 triệu yên, trở thành mặt hàng chạy nhất của Amazon.[17] Thành công tức thì của cô là nhờ Vocaloid đã trở thành một hiện tượng ở Nhật Bản và bán được 40.000 bản vào tháng 7 năm 2008, trung bình bán được 300 bản một tuần.[18] Đến tháng 1 năm 2011, bán được 60.000 bản.[19]

Nhân vật

Giao diện trình biên tập của Hatsune Miku, dựa trên Vocaloid.

Trong tiến trình phát triển Miku, Crypton quyết định đi theo một con đường khác với những con đường đã được sử dụng bởi các nhà phát hành Vocaloid khác. Crypton quyết định rằng để sản phẩm thành công không chỉ cần một giọng hát hoàn chỉnh được phát triển, mà giọng hát đó còn cần một hình ảnh. Theo con đường này, đối tượng của Crypton thay đổi từ các studio chuyên nghiệp đến tầng lớp đại chúng, đặc biệt là giới trẻ.[20]

Nhiệm vụ tạo hình cho Miku được giao phó cho họa sĩ Kei Garō. Khi Kei tạo ra Miku, anh chỉ theo một hướng đi rằng cô ấy là một android và màu đặc trưng của cô (dựa trên màu của loài rùa xanh, đặc trưng của phần mềm Vocaloid 2).[21] Thiết kế cho váy và giày của Miku dựa trên màu của phần mềm và các cột thể hiện chính các cột ở trong phần mềm. Vốn dĩ Miku có kiểu tóc khác, nhưng sau đó Kei chuyển hẳn qua kiểu bím tóc sau khi vẽ thử. Crypton sau đó chính thức công bố thông tin về Miku, tuy nhiên chỉ có các thông tin về ngoại hình của Miku được công bố. Crypton không đi vào phần tính cách của Miku vì muốn chính những người sản xuất nhạc và các fan có thể tự mình tạo nên tính cách phù hợp nhất cho cô ấy. Ngoài việc phiên bản chibi của cô với tên "Hachune Miku" cầm cọng hành trong video nhạc Ievan Polkka, công chúng còn thấy Hachune Miku nhiều nhất trong đoạn video hoạt hình có tên "Chibi Miku - san" (ちびミクさん) và bộ truyện tranh 4 ô vuông cùng tên.

Chibi Miku-san (ちびミクさん) là sê-ri 4koma (kiểu truyện tranh 4 ô hình Nhật Bản) trực tuyến được tạo bởi một nghệ sĩ tên là Minami trên Pixiv. Nó kể chi tiết về cuộc sống hàng ngày hài hước của Chibi-Miku và các đồng nghiệp của cô ấy. Một mẩu truyện mới được phát hành gần như mỗi ngày và toàn bộ loạt phim hiện đã đạt tới 500 tập ngắn. Một đoạn phim hoạt hình và mẩu truyện tranh vẽ tay đã được phát hành trên Nico Nico Douga bởi yokkaP (よっかP).

Tên Hatsune Miku[2][22]
Ngày ra mắt 31 tháng 8 năm 2007
Tuổ 16 tuổi
Chiều cao 158 cm / 5 ft 2 in
Cân nặng 42 kg / 93 lb
Thể loại đề xuất Pop, rock, dance, house, techno, crossover
Nhịp độ đề xuất 70–150 bpm
Quãng giọng đề xuất A3–E5, B2–B3

Ảnh hưởng văn hóa

Hình ảnh Hatsune Miku trên đường phố Akihabara

Nico Nico Douga, một trang web giống với YouTube, đóng vai trò cơ bản trong sự thịnh hành của Vocaloid. Rất nhanh chóng sau khi Miku được phát hành, người dùng trên NND bắt đầu đăng những bài hát được tạo ra từ giọng của cô. Theo Crypton, một video nổi tiếng với "Hachune Miku" (một phiên bản tí hon của Miku) cầm một cây hành và hát "Ievan Polkka" (dẫn đến việc cây hành trở thành đặc trưng của Miku), thể hiện tiềm năng rất lớn của phần mềm trên lĩnh vực đa phương tiện.[23] Cùng với sự nổi tiếng của Miku ngày càng tăng lên, Nico Nico Douga trở thành một điểm đến cho sự hợp tác cùng sáng tạo. Những bài hát nổi tiếng trở thành nền tảng cho những hình ảnh, video ở 2D và 3D, hay được remix bởi những người dùng khác. Một số người còn đăng lên những tác phẩm chưa hoàn thiện và xin ý kiến đóng góp của mọi người.[24]

Hatsune Miku cosplayer

Vào tháng 9 năm 2009, ba mẫu figure của nhân vật "Hatsune Miku" được phóng lên trong một tên lửa từ Mỹ mặc dù nó không bay được ra ngoài không gian.[25][26] Vào cuối tháng 11/2009, đã có một đề nghị để có một tấm nhôm "Hatsune Miku" (8 cm x 12 cm, 3.1" x 4.7") được dùng để cân bằng trọng lượng cho tàu du hành vũ trụ Akatsuki[27] của Nhật Bản. Được bắt đầu bởi Sumio Morioka (còn được biết đến là "chodenzi-P"), dự án này nhận được sự ủng hộ của Dr.Seiichi Sakamoto của cơ quan nghiên cứu và phát triển hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA). Vào ngày 22/12/2009, đề nghị đã đạt được con số 10000 chữ ký cần thiết để làm tấm nhôm. Vào 21/5/2010, vào lúc 06:58:22 (JST), Akatsuki được phóng lên mang theo 3 tấm nhôm vẽ Hatsune Miku và Hachune Miku trong vài hình đen trắng, dưới dạng rất nhiều những chữ nhỏ được khắc lên đó.

Lĩnh vực âm nhạc

Cho đến tháng 8/2010, hơn 22,000 bài hát đã được viết cho Hatsune Miku. Sau đó thống kê trong năm 2011 cho thấy có 100,000 bài hát dưới tên cô.[28]

Album "Exit Tunes Presents Vocalogenesis feat. Hatsune Miku", là album đầu tiên đứng hạng nhất trong bảng xếp hạng album trong tuần Oricon.[29] Ngoài ra còn có rất nhiều album khác như "Supercell" của nhóm Supercell,[30] "First Sound Story" của 19's Sound Factory[31] và "Re:Packaged" của Livetune, và "Re:MIKUS".[32]

Như là một thần tượng ảo, Hatsune Miku đã có buổi biểu diễn "live" đầu tiên của cô tại "Animelo Summer Live" ở Saitama Super Arena vào 22/8/2009.[33] Chuyến lưu diễn đầu tiên của cô là ở Singapore, vào 21/11/2009, trong sự kiện Anime Festival Asia (AFA).[34] Miku có buổi biểu diễn riêng có tên "Miku no Kanshasai 39's Giving Day" ở Zepp Tokyo tại Odaiba, Tokyo.[35][36] Miku biểu diễn tại Mỹ 2/7/2011 tại Nokia Theater ở L.A.Live trong lễ hội Anime Expo ở Los Angeles.[37]

Ghi chú

  1. ^ Miku là một tên gọi khác mang ý nghĩa "tương lai", 未来 bình thường đọc là mirai.[4]

Tham khảo

  1. ^ “For Creators”. Crypton Future Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ a b “About Hatsune Miku”. Crypton Future Media. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  3. ^ Comptiq (10 tháng 9 năm 2013). Hatsune Miku Graphics: Character Collection CV01 - Hatsune Miku Edition: Comptiq, Various, KEI: 9781926778747: Amazon.com: Books. UDON Entertainment Corporation. ISBN 978-1926778747.
  4. ^ “Miku”. Behind the Name. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2010.
  5. ^ “Japanese pop star Hatsune Miku takes the stage -- as a 3D hologram”. Los Angeles Times. ngày 10 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  6. ^ “英語に苦心 大人なVOCALOID「巡音ルカ」ができるまで (1/2)”. ITmedia ニュース. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ 初音ミクが未来から来ない?来た? [Did Hatsune Miku Come From the Future? Came From?] (bằng tiếng Nhật). P-tina. ngày 9 tháng 11 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2010.
  8. ^ “初音ミク・アペンド(Miku Append)” [Hatsune Miku Append (Miku Append)] (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
  9. ^ “Miku Append” (bằng tiếng Nhật). Crypton Future Media. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2010.
  10. ^ “Crypton's Twitter page” (bằng tiếng Nhật). Twitter. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2010.
  11. ^ Jrharbort. “Miku & Kaito News Blip From The NYCC”. Mikufan. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012.
  12. ^ “ポケット・ミク買ってきた”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  13. ^ “初音ミクV4 TEST:開発状況レポート@2015.04.24”. Sonicwire Blog. wat. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2016.
  14. ^ “Vocaloid Promotion Video Project”. MikuMikuDance. Geocities. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  15. ^ “HATSUNE MIKU NT(初音ミク NT)”. SONICWIRE (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2022.
  16. ^ “[Vocaloid2情報]企画制作時の悩みと答え(後半)”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  17. ^ 異例の売れ行き「初音ミク」 「ニコ動」で広がる音楽作りのすそ野 [Unprecedented Demand for "Hatsune Miku"; the Music Maker Spread on Nico Nico Douga] (bằng tiếng Nhật). IT Media. 12 tháng 9 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  18. ^ Okada, Yuka (23 tháng 7 năm 2008). 「初音ミク」発売からもうすぐ1年 開発者が語る、これまでとこれから [Hatsune Miku's Release 1st Anniversary, soon. The developer (Wat) talked: Until Now, and the Future] (bằng tiếng Nhật). ITmedia. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2014.
  19. ^ JR (1 tháng 6 năm 2011). “Virtual star to be unleashed on US”. The Independent. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng sáu năm 2011. The Hatsune Miku software has sold a remarkable 60,000 copies to date, making it a huge hit in a market where sales of 1,000 markets of a synthesizing software is considered a success.
  20. ^ “(Vocaloid2情報)企画制作時の悩みと答え(後半)” (bằng tiếng Nhật). Crypton Future Media. ngày 25 tháng 5 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2013.
  21. ^ Nguyen, Mai. “Designing Hatsune Miku: Interview with Illustrator KEI”. Asia Pacific Arts. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2019.
  22. ^ “What is the "Hatsune Miku movement"?” (PDF). Crypton Future Media. Bản gốc (PDF) lưu trữ 11 Tháng Ba năm 2012. Truy cập 16 Tháng Ba năm 2013.
  23. ^ “How Hatsune Miku opened the creative mind: Interview with Crypton Future Media” (bằng tiếng Nhật). IT Media. ngày 25 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2008.
  24. ^ “DTM in the boom again: How anonymous creators are discovered by Hatsune Miku” (bằng tiếng Nhật). IT Media. ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2008.
  25. ^ “Hachune Miku Figure to Ride Rocket from Nevada This Month”. Anime News Network. ngày 8 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2010.
  26. ^ “「あなたも宇宙開発を」 "初音ミク衛星"打ち上げ目指す「SOMESAT」” ["You Too Will Explore Space" Aiming to Launch the "Hachune Miku Satellite" "SOMESAT"] (bằng tiếng Nhật). IT Media. ngày 8 tháng 10 năm 2009. tr. 1. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2010.
  27. ^ 金星探査機「あかつき」に初音ミク絵を搭載する署名 [Sign to Get Hatsune Miku Image on Board Venus Explorer Akatsuki] (bằng tiếng Nhật). Google. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009.
  28. ^ “Who is Hatsune Miku?”. Crypton Future Media. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.
  29. ^ 初音ミク"ボーカロイドアルバム"が徳永を押さえ、初首位 [Hatsune Miku "Vocaloid Album" Reaches #1 for the First Time Overtaking Tokunaga]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 25 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2010.
  30. ^ “supercell feat.初音ミク 1st Album "supercell" Special WEB” [Supercell feat. Hatsune Miku 1st Album Supercell Special WEB] (bằng tiếng Nhật). Supercell. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010.
  31. ^ “First Sound Story” (bằng tiếng Nhật). Amazon.co.jp. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2010.
  32. ^ “livetune feat.初音ミク specialsite” [livetune feat. Hatsune Miku specialsite] (bằng tiếng Nhật). Victor Entertainment. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2010.
  33. ^ “Hatsune Miku Virtual Idol Performs 'Live' Before 25,000”. Anime News Network. ngày 23 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
  34. ^ “Virtual Idol "Hatsune Miku" to perform overseas at "I LOVE anisong" stage!”. Anime Festival Asia. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2009.
  35. ^ “Hatsune Miku Virtual Idol to Hold 1st Solo Concert”. Anime News Network. ngày 10 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.
  36. ^ 初音ミクによるソロコンサートが開催、39個の秘密も明らかに [Hatsune Miku Performs A Solo Concert, And 39 Secrets Are Revealed] (bằng tiếng Nhật). Famitsu. ngày 10 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2010.
  37. ^ “Japan's Virtual Pop Star Hatsune Miku To Make U.S. Concert Debut At Anime Expo 2011”. Anime Expo. ngày 12 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2011.

Liên kết ngoài

Read other articles:

Artikel ini membutuhkan rujukan tambahan agar kualitasnya dapat dipastikan. Mohon bantu kami mengembangkan artikel ini dengan cara menambahkan rujukan ke sumber tepercaya. Pernyataan tak bersumber bisa saja dipertentangkan dan dihapus.Cari sumber: Hilo produk – berita · surat kabar · buku · cendekiawan · JSTOR Untuk Hilo sebagai kota, lihat Hilo, Hawaii. Logo HiLo Artikel ini bukan mengenai Hino. Hilo (atau yang digayakan sebagai HiLo) adalah mere...

 

Nita WibawaPekerjaanpenyanyiKarier musikGenrepop, gospelInstrumenvokalLabelAsia RecordsKLGArtis terkaitVivi AngelicaMantan anggotaVivi & Nita Yunita Wibawa adalah seorang penyanyi berkebangsaan Indonesia pada era 80an yang dikenal dengan lagu Undangan Biru. Namun karier menyanyinya lebih eksis sebagai anggota dari duo Vivi & Nita bersama Vivi Angelica, dibanding sebagai penyanyi solo. Saat ini Nita sudah tidak eksis di industri rekaman Indonesia dan berdomisili di Austin, Texas, Ameri...

 

Вівсюнець вічнозелений Біологічна класифікація Царство: Рослини (Plantae) Клада: Судинні рослини (Tracheophyta) Клада: Покритонасінні (Angiosperms) Клада: Однодольні (Monocotyledon) Клада: Комелініди (Commelinids) Порядок: Тонконогоцвіті (Poales) Родина: Злакові (Poaceae) Підродина: Мітлицевидні (Pooideae) Рід: �...

Marat/Sade Autor Peter WeissAño 29 de abril de 1964Género Obra de teatro y DramaPublicaciónAño de publicación 1964Idioma AlemánMúsicaCompositor Hans-Martin MajewskiLetra Peter WeissPuesta en escenaLugar de estreno  (Schillertheater, West Berlin, Alemania)Director Konrad SwinarskiPersonajes Marqués de SadeAbbé de CoulmierJean-Paul MaratSimonne EvrardCharlotte CordayDuperretJacques RouxThe Herald Kokol Polpoch Cucurucu Rossignol[editar datos en Wikidata] La persecución ...

 

Candi TawangalunBanguanan Candi Tawangalun dari samping.Location within JawaInformasi umumGaya arsitekturCandi Jawa TimuranKotaSidoarjo, Jawa TimurNegaraIndonesia Candi Tawangalun adalah peninggalan masa klasik yang terletak di Kabupaten Sidoarjo.[1] Lokasi Candi ini berlokasi di Sedati, Kabupaten Sidoarjo, Jawa Timur, Candi ini termasuk dalam cagar budaya. Sejarah Candi ini merupakan candi peninggalan yang paling di anak tirikan oleh pemerintah, kata Pak Saiful juru kunci dan yang be...

 

Arenaldo Moniaga adalah putra dari petinju Indonesia, Ferry Moniaga. Kelebihan petinju kelahiran Jakarta, 17 November 1984, ini adalah bertubuh jangkung (175 cm). Jangkauan tangannya cukup panjang. Lawan yang lebih pendek hampir pasti menghadapi kesulitan berhadapan dengannya. Selain itu, pukulan balasannya (counter) cepat dan akurat. (Kompas) Prestasi Juara I (kelas bulu) Piala Kapolda Sumut 2005 Babak 16 besar kelas bulu Kejuaraan Dunia 2003 di Bangkok, Thailand Medali Perunggu (kelas bulu)...

Die hier angeführten Flugplätze und Flugplatzprojekte sind zeitlich eingeschränkt auf die Ära „Fliegen schwerer als Luft“ und räumlich auf die größte Ausdehnung der Stadt während der NS-Herrschaft (Groß-Wien). In diese Aufstellung wurden jedoch auch drei Flugplätze aufgenommen, die nicht auf dem Stadtgebiet von Groß-Wien lagen. Das Flugfeld Ebergassing lag direkt an der Grenze zwischen Wien und Niederdonau. Der Flugplatz Langenlebarn war während der Besatzungszeit der Flughafe...

 

Romanian footballer Alex Dobre Dobre training for Dijon in 2020Personal informationFull name Mihai Alexandru Dobre[1]Date of birth (1998-08-30) 30 August 1998 (age 25)Place of birth Bucharest, RomaniaHeight 1.85 m (6 ft 1 in)Position(s) WingerTeam informationCurrent team FamalicãoNumber 23Youth career0000–2016 Viitorul Cluj2016–2017 AFC BournemouthSenior career*Years Team Apps (Gls)2017–2020 AFC Bournemouth 0 (0)2017–2018 → Bury (loan) 10 (0)2018 → Roc...

 

2017 Indian film directed by Shiva Nirvana Ninnu KoriTheatrical release posterDirected byShiva NirvanaScreenplay byKona VenkatStory byShiva NirvanaProduced byD. V. V. DanayyaStarringNaniNivetha Thomas Aadhi PinisettyCinematographyKarthik GattamneniEdited byPrawin PudiMusic byGopi SunderProductioncompaniesDVV Entertainments Kona Film CorporationRelease date 7 July 2017 (2017-07-07)[1] Running time137 minutesCountryIndiaLanguageTeluguBudget₹18 crore[2]Box office...

American physician William Erastus Upjohn, c. 1875 William Erastus Upjohn (June 15, 1853 – October 18, 1932) was an American medical doctor and both founder and president of The Upjohn Pharmaceutical Company. He was named Person of the Century by the Kalamazoo, Michigan, newspaper.[1] Early life Upjohn was one of twelve children born to Dr. Uriah Upjohn, pioneer doctor, and his wife, Maria Mills Upjohn, in Kalamazoo, Michigan.[2] In 1875, he graduated from the University...

 

19th-century British athlete Ada AndersonBornAda Nymand10 February 1843[1]LondonOccupationPedestrianism and theatreLanguageEnglishNationalityBritish Ada Anderson, née Nymand (10 February 1843 – ?) was a British athlete famous for her feats of pedestrianism in the latter half of the 19th century.[2] She set various records for distance covered in a given time period, becoming known as ‘Champion Lady Walker of the World’. After becoming the dominant pedestrian in the...

 

Not to be confused with Stjepan Božić. This article's lead section may not adequately summarize its contents. Please help improve the lead by writing an accessible overview. (July 2012) Stipe BožićBorn(1951-01-02)2 January 1951Zavojane near Vrgorac,PR Croatia, FPR Yugoslavia(today's Croatia)NationalityCroatianOccupation(s)Mountaineer, documentary filmmaker, photographer and writerKnown forCompleted the Seven Summits Stipe Božić (born 2 January 1951[1]) is a Croatian mountai...

Traditional English dish For other uses, see Toad in the hole (disambiguation). Toad in the holeToad in the hole, ready to be servedAlternative namesSausage toadPlace of originUnited KingdomRegion or stateEnglandServing temperatureHotMain ingredientsSausages, Yorkshire pudding batter, onion gravy  Media: Toad in the hole Toad in the hole or sausage toad is a traditional English[1][2] dish consisting of sausages in Yorkshire pudding batter, usually served with onion gr...

 

Cuthbert Hurd Nascimento 5 de abril de 1911Estherville Morte 22 de maio de 1996 (85 anos)San Mateo Nacionalidade estadunidense Cidadania Estados Unidos Ocupação cientista de computação, oficial Prêmios Prêmio Pioneiro da Computação (1986) Empregador(a) IBM Campo(s) ciência da computação [edite no Wikidata] Cuthbert Corwin Hurd (Estherville, 5 de abril de 1911 – 22 de maio de 1996) foi um cientista da computação e empreendedor estadunidense. Foi instrumental no aux...

 

Fluorine azide Names Other names triazadienyl fluoride Identifiers CAS Number 14986-60-8 Y 3D model (JSmol) Interactive image PubChem CID 23235952 CompTox Dashboard (EPA) DTXSID40631418 InChI InChI=1S/FN3/c1-3-4-2Key: AJXWEJAGUZJGRI-UHFFFAOYSA-N SMILES [N-]=[N+]=NF Properties Chemical formula FN3 Molar mass 61.019 g/mol Appearance Yellow-green gas Melting point −139 °C (−218 °F; 134 K) Boiling point −30 °C (−22 °F; 243 K) ...

Genus (gens) AtyuszCountryKingdom of HungaryFoundedc. 1117FounderBánd I (or Buzad I?)Final rulerCsabaDissolutionc. 1300Cadet branchesAlmád branch Atyusz (also Oghuz or Ochuz) was the name of a gens (Latin for clan; nemzetség in Hungarian) in the Kingdom of Hungary, several prominent secular dignitaries came from this kindred. Etymology The word Atyusz is most probably Turkic origin; according to Géza Nagy, that was derived from the name of Oghuz Khagan. Zoltán Gombocz says, the name came...

 

Airline of Turkey Not to be confused with Air Pegasus. Pegasus Airlines IATA ICAO Callsign PC PGT SUNTURK Founded12 January 1991; 32 years ago (1991-01-12)Operating bases Adana Ankara Antalya Ercan Istanbul–Sabiha Gökçen İzmir Frequent-flyer programPegasus BolBolSubsidiariesPegasus Asia, IZair, Pegasus CargoFleet size95Destinations134[1]Parent companyESAS HoldingTraded asBİST: PGSUSRevenue ₺42,732,213,696 billion (2022)[2]Operating income ₺9,67...

 

United States historic placeCurtin VillageU.S. National Register of Historic PlacesU.S. Historic district Eagle Ironworks, Curtin Village, December 2012Show map of PennsylvaniaShow map of the United StatesLocationOff U.S. 220, Boggs Township, Boggs Township, PennsylvaniaCoordinates40°58′26″N 77°44′33″W / 40.97389°N 77.74250°W / 40.97389; -77.74250Area155.1 acres (62.8 ha)Built1810Architectural styleLate Victorian, FederalNRHP reference N...

Philippine actor and model Not to be confused with Juan Triviño. In this Philippine name, the middle name or maternal family name is Calupitan and the surname or paternal family name is Triviño. This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article possibly contains original research. Please improve it by verifying the claims made and adding inline citations. Statements ...

 

Community in Tennessee, United StatesCordova, TennesseeCommunityCordova Farms Flowers Fellowship signCoordinates: 35°09′20″N 89°46′34″W / 35.15556°N 89.77611°W / 35.15556; -89.77611CountryUnited StatesStateTennesseeCountyShelbyCityMemphis (majority)Settledc. 1835Area • Total8.019 sq mi (20.77 km2)Elevation361 ft (110 m)Population (2020) • Total68,779 Census Bureau American Community SurveyTime zoneU...

 
Kembali kehalaman sebelumnya