Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Jana Novotná

Jana Novotná
Novotná năm 1996
Quốc tịchCờ Tiệp Khắc Tiệp Khắc (1987 – 1992)
 Cộng hòa Séc (1993 – 1999)
Sinh(1968-10-02)2 tháng 10 năm 1968
Brno, Czechoslovakia
(now Czech Republic)
Mất19 tháng 11 năm 2017(2017-11-19) (49 tuổi)
Omice, Cộng hòa Séc
Chiều cao1,75 m (5 ft 9 in)
Lên chuyên nghiệp1987
Giải nghệ1999
Tay thuậntay phải (trái 1 tay)
Tiền thưởng$11,249,284
Int. Tennis HOF2005 (trang thành viên)
Đánh đơn
Thắng/Thua571–225 (71.73%)
Số danh hiệu24
Thứ hạng cao nhấtNo. 2 (7 tháng 7, 1997)
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngF (1991)
Pháp mở rộngSF (1990, 1996)
WimbledonW (1998)
Mỹ Mở rộngSF (1994, 1998)
Các giải khác
WTA FinalsW (1997)
Đánh đôi
Thắng/Thua697–153 (82%)
Số danh hiệu76
Thứ hạng cao nhấtNo. 1 (27 tháng 8, 1990)
Thành tích đánh đôi Gland Slam
Úc Mở rộngW (1990, 1995)
Pháp Mở rộngW (1990, 1991, 1998)
WimbledonW (1989, 1990, 1995, 1998)
Mỹ Mở rộngW (1994, 1997, 1998)
Giải đấu đôi khác
WTA FinalsW (1995, 1997)
Đôi nam nữ
Số danh hiệu4
Kết quả đôi nam nữ Grand Slam
Úc Mở rộngW (1988, 1989)
Pháp Mở rộng2R (1992)
WimbledonW (1989)
Mỹ Mở rộngW (1988)
Giải đồng đội
Fed CupW (1988)
Hopman CupW (1994)
Thành tích huy chương
Women's tennis
Olympic Games
Đại diện cho Cờ Tiệp Khắc Tiệp Khắc
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1988 Seoul Đôi nữ
Đại diện cho  Cộng hòa Séc
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1996 Atlanta Đôi nữ
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 1996 Atlanta Đơn nữ

Jana Novotná (phát âm tiếng Séc: [ˈjana ˈnovotnaː]; 2 tháng 10 năm 1968 – 19 tháng 11 năm 2017) là cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp đến từ Cộng hòa Séc. Cô chơi theo phong cách giao bóng lên lưới, một phong cách chơi ngày càng hiếm của các tay vợt nữ trong sự nghiệp của cô.[1][2]

Cô đã giành được danh hiệu đơn nữ tại Wimbledon năm 1998 và là á quân trong ba giải đấu Grand Slam trước đó. Novotná cũng giành được 12 danh hiệu đôi nữ Grand Slam (hoàn thành Career Grand Slam hai lần), bốn danh hiệu đôi nam nữ Grand Slam và ba huy chương Olympic. Cô đạt thứ hạng đơn nữ cao nhất thế giới vào năm 1997 và giữ thứ hạng số 1 đôi nữ trong 67 tuần không liên tiếp.[3]

Sự nghiệp

Jana Novotná chuyển sang chuyên nghiệp vào tháng 2 năm 1987.[4] Trong những năm đầu khởi nghiệp, cô được biết đến chủ yếu nhờ thành công với tư cách là một tay vợt đánh đôi. Đầu những năm 1990, Novotná bắt đầu gặt hái thành công ở nội dung đơn khi nhà vô địch đơn giải Grand Slam bốn lần Hana Mandlíková trở thành huấn luyện viên của cô. Mandlíková sau đó huấn luyện cô trong chín năm.[5] Trước đây cô đã được Mike Estep huấn luyện.[6]

1990

Tại Pháp mở rộng 1990, Novotná, hạt giống số 11, đã đạt được kết quả tốt nhất của cô trong trận đấu đơn Grand Slam cho đến thời điểm đó. Sau khi lọt vào vòng 16 đội, cô phải đối mặt với người Argentina là Gabriela Sabatini (hạt giống số 4). Trong bốn trận gặp mặt trước đó, Sabatini đã có được ba trận thắng trong dó có 2 trận thắng liên tiếp. Nhưng lần gặp mặt này lại khác, khi Novotná lật ngược tình thế với Sabatini. Mặc dù Novotná đã loại Sabatini, cô sẽ phải đối mặt với một đối thủ khó khăn khác ở tứ kết, Katerina Maleeva (hạt giống số tám) từ Bulgaria. Trong hai lần gặp gỡ trước Novotná đã thua cả hai lần và sau khi Maleeva giành chiến thắng ở set mở màn, có vẻ như Novotná sắp thua lần thứ ba liên tiếp trước Maleeva. Tuy nhiên, Novotná đã trở lại để đánh bại Katerina Maleeva. Mặc dù thành công, thử thách khó khăn nhất của Novotná sẽ là chống lại Steffi Graf hạt giống hàng đầu của Đức trong trận bán kết. Khi Novotná đối mặt với Graf ba năm trước tại Pháp mở rộng 1987, Graf đã giành chiến thắng trong tất cả các set đấu. Bây giờ, Graf một lần nữa đánh bại Novotná mà không thua một set nào.[6] Cô đủ điều kiện lần đầu tiên tham dự Giải vô địch Virginia Slims cuối mùa, trong đó cô bị Sabatini đánh bại ở vòng đầu tiên.[7] Cô kết thúc năm với vị trí trên bảng xếp hạng là 13.[6]

1991

Novotná đã có một khởi đầu tuyệt vời cho mùa giải 1991 tại Úc Mở rộng, nơi cô được hạt giống số 10 và đánh bại Zina Garrison-Jackson 7 – 6, 6 – 4 ở vòng 16 để tiến vào tứ kết. Con đường đến trận chung kết trở nên khó khăn hơn đáng kể, vì Novotná phải đối đầu với Steffi Graf hạt giống hàng đầu trong cuộc chạm trán tứ kết. Trong mười lần gặp gỡ trước đó, Novotná đều thua trước Graf.[8]

Nhưng lần này Novotná đã gây chấn động bằng cách đánh bại Graf, nhà vô địch trị vì trong ba năm qua, 5 – 7, 6 – 4, 8 – 6.[9] Để tham dự trận chung kết Grand Slam đầu tiên của cô, Novotná sẽ phải thắng Arantxa Sánchez Vicario tại bán kết. Novotná đã đánh bại Sánchez Vicario, để đấu với Monica Seles trong trận chung kết. Seles cuối cùng đã giành chiến thắng trong ba set.[10][11] Vào cuối năm, Novotná được xếp thứ 7.[6]

Tham khảo

  1. ^ Joel Drucker. “1997 US Open Preview and Predictions”. The Tennis Server.
  2. ^ “On clay, serve and volley is no folly”. Reddif. 26 tháng 5 năm 2008.
  3. ^ admin (19 tháng 4 năm 2017). “Press Center”. wtatennis.com. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2018.
  4. ^ “WTA player profile – Jana Novotná”. wtatennis.com.
  5. ^ Fialkov, Harvey. “Hana Mandlikova happily shifts from Grand Slam champ to tennis mom”. Sun-Sentinel. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017.
  6. ^ a b c d John Barrett biên tập (1999). ITF World of Tennis 1999. London: Collins. tr. 339–42. ISBN 9780002188623.
  7. ^ John Barrett biên tập (1990). The International Tennis Federation : World of Tennis 1990. London: Willow Books. tr. 173–174. ISBN 9780002183550.
  8. ^ Mitchell, Kevin (20 tháng 11 năm 2017). “Jana Novotna, former Wimbledon tennis champion, dies aged 49”. The Guardian. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017.
  9. ^ “Novotna Ends Graf's Reign at Australian Open”. The New York Times. Associated Press. 22 tháng 1 năm 1991.
  10. ^ Sandra Harwitt (27 tháng 1 năm 1991). “Tennis; Seles Rallies Past Novotna To Win Australian Open”. The New York Times.
  11. ^ Richard Finn (26 tháng 1 năm 1991). “Seles Rallies, Tops Novotna For Australian Title”. Chicago Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2019.
Kembali kehalaman sebelumnya