María Teresa sinh ngày 28 tháng 7 năm 1933 tại Paris.[2] Bà là con gái của Hoàng tử Xavier của Bourbon-Parma, Công tước xứ Parma và Piacenza, một người ủng hộ phong trào Carl và đòi quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha. Mẹ bà là Madeleine de Bourbon-Busset, một thành viên của chi nhánh Nhà Bourbon.[3][4] Bà là em gái của Công chúa Marie-Françoir và Carlos Hugo, Công tước xứ Parma và là chị gái của Hoàng tử Sixtus Henry, Công tước xứ Aranjuez.
Teresa lớn lên tại lâu đài Old Bostz, Besson, Bourbonnais.[5] Sau khi học trung học tại Thành phố Quebec[6] và Tours,[7] bà tiếp tục lấy bằng tiến sĩ về nghiên cứu tiếng Tây Ban Nha từ Đại học Paris-Sorbonne và bằng tiến sĩ xã hội học chính trị từ Đại học Complutense Madrid. Bên cạnh đó, Teresa cũng chuyên tâm nghiên cứu về chủ đề Hồi giáo, với mục tiêu đi tìm câu trả lời cho mối liên đới giữa quyền phụ nữ và Hồi giáo.[8] Luận án năm 1977 của bà tại Sorbonne có tựa đề "La clarificación ideológica del Carlismo contemporáneo" ("Làm rõ tư tưởng của chủ nghĩa Carl đương đại").[9]
Sự nghiệp và hoạt động
María Teresa là giáo sư ở cả hai trường đại học mà bà từng theo học.[8] Ngoài ra, bà còn là một nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa và là một nhà đấu tranh cho quyền của phụ nữ.[10]
María Teresa ủng hộ anh trai Carlos Hugo trong cuộc chiến để làm cho Đảng Carl của Tây Ban Nha trở nên tự do hơn,[11] ủng hộ việc thay đổi ý thức hệ trong chủ nghĩa Carl giữa các thành viên trong gia đình mình. Nguồn gốc hoàng gia và quan điểm xã hội chủ nghĩa tự do của bà đã thu hút nhiều cá nhân, mang bà đến với André Malraux, François Mitterrand, Yasser Arafat và Hugo Chávez. Vì lý do này, bà được đặt cho biệt danh "Công chúa đỏ".[7][12] Biệt danh này đã được sử dụng làm tiêu đề tiếng Tây Ban Nha cho tiểu sử María Teresa do nhà sử học Josep Carles Clemente chấp bút năm 2002.[13]
Đời tư
Năm 1981, María Teresa được trao quyền công dân Tây Ban Nha theo sắc lệnh vương thất. Bản tin chính thức của nhà nước nói rằng quyết định này được đưa ra "theo yêu cầu của bên quan tâm và để đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt khi bà ấy thuộc về một gia đình có liên kết chặt chẽ với Tây Ban Nha".[14]
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1997, María Teresa nói rằng bà là Kitô hữu, nhưng chỉ trích một số thái độ của Kitô giáo đối với việc nhập cư đã gây ra chia rẽ trong cộng đồng.[15]
María Teresa không bao giờ kết hôn[10] và không có con.[16] Bà là dì của Hoàng tử Carlos, Công tước xứ Parma và là anh em họ thứ tư của đương kim Quốc vương Tây Ban NhaFelipe VI.[8]
Năm 2014, María Teresa xuất bản một quyển sách viết về lịch sử của gia đình Bourbon-Parma.[17]
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2020, María Teresa trở thành thành viên đầu tiên của một gia đình hoàng gia qua đời vì COVID-19.[2][4][8][18] Bà mất tại Hôpital Cochin ở Paris, thọ 86 tuổi.[19] Một buổi lễ tưởng niệm đã được tổ chức tại Madrid vào ngày 27 tháng 3 năm 2020, do Rev. José Ramón García Gallardo, một linh mục của Huynh đoàn Thánh Piô X và là một sĩ quan của tổ chức La Orden de la Legitimidad Proscrita (Tây Ban Nha) chủ trì.[20] Đám tang theo nghi thức Công giáo thứ hai được tổ chức vào ngày 2 tháng 4 năm 2020 tại Notre-Dame-des-Champs ở Paris.[21] Cái chết của bà đã được công bố trên trang web chính thức của Nhà Bourbon-Parma,[22] đi kèm lời ngưỡng mộ vì sự nghiệp "đấu tranh cho dân chủ hóa, công bằng xã hội và tự do ở Tây Ban Nha" mà bà dành cả cuộc đời theo đuổi.[17]
Borbón-Parma, María Teresa de (1979). La clarificación ideológica del partido Carlista (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788485596027. Borbón-Parma, María Teresa de (1979). La clarificación ideológica del partido Carlista (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788485596027. Borbón-Parma, María Teresa de (1979). La clarificación ideológica del partido Carlista (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788485596027.
Borbón-Parma, María Teresa de (1990). Cambios en México (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788430918591. Borbón-Parma, María Teresa de (1990). Cambios en México (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788430918591. Borbón-Parma, María Teresa de (1990). Cambios en México (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788430918591.
Borbón-Parma, María Teresa de (1994). Magreb: Nuestro poniente proximo (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788476833308. Borbón-Parma, María Teresa de (1994). Magreb: Nuestro poniente proximo (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788476833308. Borbón-Parma, María Teresa de (1994). Magreb: Nuestro poniente proximo (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788476833308.
Borbón-Parma, María Teresa de (1997). Don Javier: una vida al servicio de la libertad (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788401530180. Borbón-Parma, María Teresa de (1997). Don Javier: una vida al servicio de la libertad (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788401530180. Borbón-Parma, María Teresa de (1997). Don Javier: una vida al servicio de la libertad (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788401530180.
Borbón-Parma, María Teresa de (1999). Desde Tánger (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788483740774. Borbón-Parma, María Teresa de (1999). Desde Tánger (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788483740774. Borbón-Parma, María Teresa de (1999). Desde Tánger (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788483740774.
Borbón-Parma, María Teresa de (2009). Así fueron, así son (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788408088967. Borbón-Parma, María Teresa de (2009). Así fueron, así son (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788408088967. Borbón-Parma, María Teresa de (2009). Así fueron, así son (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788408088967.
Xem thêm
Clemente, Josep Carles (2002). La Princesa Roja [The Red Princess] (bằng tiếng Tây Ban Nha). ISBN9788427027930. (Biography)