Ước tính, trên toàn cầu có từ 31-45 triệu người Kurd, đa số sống tại Tây Á; còn có những cộng đồng người Kurd tại nhiều thành phố tây Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là Istanbul. Một cộng đồng kiều dân người Kurd cũng đang phát triển tại châu Âu, nhất là tại Đức. Người Kurd chiếm đa số dân cư vùng tự trị Kurdistan thuộc Iraq, và thiểu số đáng kể tại Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, nơi những phong trào dân tộc Kurd tiếp tục theo đuổi mục tiêu giành quyền tự trị và văn hóa cho người Kurd.
Ngôn ngữ
Tiếng Kurd là một nhóm các phương ngữ được nói bởi người Kurd. Nó chủ yếu được nói trong những vùng của Iran, Iraq, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực người Kurd. Tiếng Kurd có tư cách chính thức ở Iraq như một ngôn ngữ quốc gia cùng với tiếng Ả Rập, được công nhận ở Iran như một ngôn ngữ khu vực, và ở Armenia như một ngôn ngữ thiểu số.
Các ngôn ngữ người Kurd thuộc nhóm phụ miền tây bắc của nhóm ngôn ngữ Iran, thuộc về nhánh Indo-Iran và là một nhánh của ngôn ngữ Ấn-Âu.
Hầu hết người Kurd là người nói được song ngữ hoặc đa ngôn ngữ, nói ngôn ngữ của quốc gia gốc của họ, chẳng hạn như tiếng Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ như ngôn ngữ thứ hai bên cạnh tiếng Kurd của họ, trong khi những người ở cộng đồng người di cư thường nói ba hoặc nhiều ngôn ngữ.
Theo Mackenzie, tất cả các phương ngữ người Kurd có rất ít tính năng ngôn ngữ chung và cũng khác trong các ngôn ngữ Iran khác.
Các phương ngữ người Kurd theo Mackenzie được phân loại là:
Nhóm phía Bắc (nhóm thổ ngữ Kurmanji)
Nhóm trung tâm (một phần của nhóm phương ngữ Sorani)
Nhóm phía Nam (một phần của nhóm thổ ngữ Sorani) bao gồm Kermanshahi, Ardalani và Laki
Người Zaza và Gorani là dân tộc người Kurd, nhưng các ngôn ngữ Zaza-Gorani không được phân loại là tiếng Kurd.
Nhận xét về sự khác biệt giữa các phương ngữ của người Kurd, Kreyenbroek làm rõ rằng theo một số cách, mối liên hệ Kurmanji và Sorani khác với liên hệ tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Đức, ví dụ Kurmanji có dấu chấm câu và ngữ pháp, nhưng Sorani thì không, và thấy rằng Sorani và Kurmanji là "phương ngữ" của một ngôn ngữ được hỗ trợ vì "nguồn gốc phổ biến của họ... và thực tế là việc sử dụng này phản ánh ý thức về bản sắc dân tộc và sự thống nhất của người Kurd."
Nguồn gốc người Kurd
Người Kurd là một dân tộc trong nhóm người Tây Bắc Iran xuất hiện trong hồ sơ lịch sử vào cuối thế kỷ thứ bảy.
Các học giả đã gợi ý các giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của tên Kurd. Theo nhà Đông Phương học người Anh Godfrey Rolles, thuật ngữ Kurd có liên quan đến người Sumerian Karda được tìm thấy từ các viên đất sét Sumer của thiên niên kỷ thứ ba BC, trong khi theo các học giả khác, nó trước thời kỳ Hồi giáo, khi 1 từ ba tư "nomad ", và cuối cùng có thể được bắt nguồn từ một tên gọi hoặc tên bộ lạc cổ đại, hoặc là của Cyrtii hoặc của Corduene. Cái tên Kurds (Arabic Kurd, số nhiều Akrad) được sử dụng trong suốt thời kỳ trung cổ, từ các cuộc chinh phục Hồi giáo, cũng như một thuật ngữ chung cho các bộ tộc du mục Iran của người Ả Rập.
Dân số
Số lượng người Kurd sống ở Tây Nam Á ước tính gần 30 triệu người, với một hoặc hai triệu người sống trong cộng đồng người Do Thái. Người Kurd chiếm từ 18% đến 20% dân số ở Thổ Nhĩ Kỳ, có thể cao tới 25%, 15 đến 20% ở Iraq; 10% ở Iran; và 9% ở Syria. Người Kurd tạo thành các khu vực lớn trong cả bốn quốc gia này, tức là, Người Kurd Thổ Nhĩ Kỳ, Người Kurd Iraq, Người Kurd Iran và Người Kurd Syria. Người Kurd là nhóm dân tộc lớn thứ tư ở Tây Á sau người Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tổng số người Kurd năm 1991 được đặt ở mức 22,5 triệu người, với 48% số người sống ở Thổ Nhĩ Kỳ, 18% ở Iraq, 24% ở Iran và 4% ở Syria.
Những người di cư gần đây chiếm một dân số gần 1,5 triệu người ở các nước phương Tây, khoảng một nửa trong số họ ở Đức.
Một trường hợp đặc biệt là quần thể người Kurd ở Ngoại Kavkaz và Trung Á, đã di dời chủ yếu vào thời của Đế chế Nga, họ đã trải qua những phát triển độc lập trong hơn một thế kỷ và đã phát triển bản sắc dân tộc theo cách riêng của họ. Dân số của nhóm này được ước tính là gần 0,4 triệu vào năm 1990.
Văn hóa
Văn hóa người Kurd là một di sản từ những dân tộc cổ xưa khác nhau đã định hình người Kurd hiện đại và xã hội của họ. Như hầu hết cư dân khác ở Trung Đông, một mức độ cao của sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa người Kurd và những cư dân hàng xóm là rõ ràng. Vì vậy, trong văn hóa người Kurd các yếu tố khác nhau của các nền văn hóa khác là được nhìn thấy. Tuy nhiên, về tổng thể, văn hóa người Kurd là gần gũi nhất với văn hóa của những người Iran, đặc biệt là những người về phương diện lịch sử có sự gần gũi nhất về mặt địa lí với người Kurd, như người Ba Tư và người Lur. Người Kurd, ví dụ như, cũng làm lễ kỉ niệm Newroz (21/3) như là ngày của năm mới.
Đọc thêm
Barth, F. 1953. Principles of Social Organization in Southern Kurdistan. Bulletin of the University Ethnographic Museum 7. Oslo.
Hansen, H.H. 1961. The Kurdish Woman's Life. Copenhagen. Ethnographic Museum Record 7:1-213.
Leach, E.R. 1938. Social and Economic Organization of the Rowanduz Kurds. London School of Economics Monographs on Social Anthropology 3:1-74.
Longrigg, S.H. 1953. Iraq, 1900-1950. London.
Masters, W.M. 1953. Rowanduz. Ph.D. dissertation, University of Michigan.
Chú thích
^ abcdWorld Factbook . Langley, Virginia: US Central Intelligence Agency. 2015. ISSN1553-8133. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2015. A rough estimate in this edition has populations of 14.3 million in Turkey, 8.2 million in Iran, about 5.6 to 7.4 million in Iraq, and less than 2 million in Syria, which adds up to approximately 28–30 million Kurds in Kurdistan or adjacient regions. CIA estimates are tính đến tháng 8 năm 2015[cập nhật] – Turkey: Kurdish 18%, of 81.6 million; Iran: Kurd 10%, of 81.82 million; Iraq: Kurdish 15%-20%, of 37.01 million, Syria: Kurds, Armenians, and other 9.7%, of 17.01 million.
^ abcdYildiz, Kerim; Fryer, Georgina (2004). The Kurds: Culture and Language Rights. Kurdish Human Rights Project. Data: 18% of Turkey, 20% of Iraq, 8% of Iran, 9.6%+ of Syria; plus 1–2 million in neighboring countries and the diaspora
^Volume 2. Dabbagh – Kuwait University. — Iran, page 1111–1112. // Encyclopedia of Modern Middle East & North Africa. Second Edition. Volume 1 — 4. Editor in Chief: Philip Mattar. Associate Editors: Charles E. Butterworth, Neil Caplan, Michael R. Fischbach, Eric Hooglund, Laurie King–Irani, John Ruedy. Farmington Hills: Gale, 2004, 2936 pages. ISBN 9780028657691 "With an estimated population of 67 million in 2004, Iran is one of the most populous countries in the Middle East.... Iran's second largest ethnolinguistic minority, the Kurds, make up an estimated 5 percent of the country's population and reside in the provinces of Kerman and Kurdistan as well as in parts of West Azerbaijan and Ilam. Kurds in Iran are divided along religious lines as Sunni, Shi'ite, or Ahl-e Haqq."
^Hoare, Ben; Parrish, Margaret biên tập (ngày 1 tháng 3 năm 2010). “Country Factfiles — Iran”. Atlas A–Z . London: Dorling Kindersley Publishing. tr. 238. ISBN9780756658625.
^Hoare & Parrish biên tập (2010). “Country Factfiles — Iran”. Atlas A–Z (ấn bản thứ 4). tr. 239.
^Bois, T.; Minorsky, V.; MacKenzie, D. N. (2009). “Kurds, Kurdistan”. Trong Bearman, P.; Bianquis, T.; Bosworth, C. E.; van Donzel, E.; Heinrichs, W. P. (biên tập). Encyclopaedia Islamica. Brill.