Lộ tự Công Minh, là người quận Bình Nguyên (nay thuộc Sơn Đông), nước Ngụy. [TT 1] Cha của Lộ (không rõ tên) từng được làm huyện trưởng ở Tức Khâu, quận Lang Da và Lợi Tào kề cận Nghiệp Thành. [TT 2]
Lộ nổi danh về bói toán, nên láng giềng chẳng cần đóng cửa ngoài cũng không bị trộm cắp gì. Thanh Hà thái thú Hoa Biểu (con Hoa Hâm) triệu Lộ làm Văn học duyện, [TT 3] phụ trách Bắc huỳnh [d]. Bấy giờ bạn bè sĩ phu chẳng ai không than thở hâm mộ, [QT 1] nhưng bạn thân của ông là Triệu Khổng Diệu cho rằng vị trí ấy không tương xứng với tài năng của ông, đề nghị ông phục vụ Ký Châu thứ sử Bùi Huy, ông đồng ý. [QT 2] Nhờ Khổng Diệu tiến cử, Lộ được Bùi Huy triệu làm Văn học tòng sự. Lộ đàm luận rất hợp ý Huy, lần lượt được thăng làm Cự Lộc tòng sự, Trị trung và Biệt giá. [TT 4][QT 3]
Năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được Bùi Huy cử Tú tài. [TT 5][QT 4] Năm Chánh Nguyên thứ 2 (255), Lộ được làm Thiếu phủ thừa. Tháng 2 ÂL năm sau, Lộ mất, hưởng thọ 48 tuổi. [TT 6]
Tính cách
Lộ có dung mạo xấu xí, dáng vẻ chẳng nghiêm trang mà còn ham rượu, khi ăn uống nói năng thì không để ý thân phận, nên người đời phần nhiều thì yêu thích mà không kính trọng ông. [TT 7] Tính Lộ khoan dung, phần nhiều nhẫn nhịn, không chê người ghét mình, không khen người yêu mình, thường muốn lấy đức báo oán, luôn nói: “Trung hiếu tín nghĩa, là căn bản của con người, không thể không đầy đặn; liêm giới tế trực, là trang sức của kẻ sĩ, không đủ để làm việc.” [QT 5] Lộ hiếu thảo với cha mẹ, hết lòng với anh em, hòa thuận với bạn bè, đều lấy nhân hòa xử thế, trọn đời không có khiếm khuyết; kẻ sĩ dù thích hay không, cũng đều chịu phục ông. [QT 6]
Lộ cho rằng đời này không có tri kỷ, tự nhận: “Người hiểu tôi ít, nên tôi quý vậy, há phải chặn dòng Giang, Hán, mới thấy rõ việc nước chảy đá mòn hay sao? Vui vẻ cùng Quý Chủ luận đạo, không muốn ngồi cùng thuyền với người đánh cá, là chí của tôi đấy!” [QT 7] Em trai của Lộ là Quản Thần cho biết Lộ từng thổ lộ không có biện pháp nào để so tài với những thuật sĩ đời xưa, đành chịu ôm hận. [QT 8]
Học vấn
Từ nhỏ Lộ đã yêu thích thiên văn, rất giỏi lý luận, được khen là có “dị tài”. [QT 9] Lên 15 tuổi, Lộ theo cha đến nha môn của huyện Tức Khâu, mới được đọc kinh Thi, Luận Ngữ rồi đến kinh Dịch, bắt được bộc lộ văn tài. Sau cuộc tranh luận ở nhà của thượng cấp của cha là Lang Da thái thú Thiện Tử Xuân, Lộ được Tử Xuân đánh giá rất cao, nhờ vậy mà nổi danh là thần đồng. [QT 10]
Lộ theo người huyện Lợi Tào là Quách Ân học kinh Dịch, học thiên văn, chưa đến 1 năm đã vượt qua cả thầy, khiến Ân phải hỏi ngược lại ông. Từ rày Lộ bói cỏ thi các việc bệnh chết, giàu nghèo cho bạn học, chẳng gì không trúng, được khen là thần nhân. [QT 11] Đến khi trưởng thành, Lộ tinh thông Chu Dịch, rành rẽ hết thảy các ngành ngắm thiên văn, đoán gió thổi, bói mai rùa, bói cỏ thi, xem tướng người,... [QT 12]
Sự tích
Sự tích về Lộ được lưu truyền hầu như dựa vào Quản Lộ biệt truyện do Quản Thần chấp bút, nhưng chính Thần tự nhận tuy có điều kiện gần gũi anh trai, nhưng bản thân tài năng kém cỏi, [QT 13] chỉ có thể truyền tải một, hai phần mười năng lực của Lộ. [QT 14] Bùi Tùng Chi khảo xét, có danh sĩ đầu đời Tây Tấn là Diêm Toản (cháu nội Diêm Phố) vốn không tin vào Huyền học, từng được Quản Thần cho xem ghi chép về Lộ qua lời kể của danh Nho Lưu Thực, Thần cũng thừa nhận với Toản rằng mình chỉ giữ được một, hai phần mười. [BTC 1] Ngoài ra còn có Tiền nhiệm Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được Thành môn hiệu úy Hoa Dị (tự Trường Tuấn, con Hoa Biểu) nhận rằng đã từng thân thiết với Lộ ở quận Thanh Hà, cho biết khi ấy Thần còn ở quê nhà, không biết được bao nhiêu chuyện của Lộ. Hoa Dị kể rằng sự tích về Lộ mà mình biết nhiều gấp 3 lần của Biệt truyện. [BTC 2]
Bói toán
Ở huyện Lợi Tào, Quách Ân mời một mình Lộ đến nhà, tiếp đãi trọng thể, khiến ông bói cỏ thi để tìm hiểu tại sao ba anh em mình đều bị khoèo. [QT 15][TT 8] Quẻ xong, Lộ nói riêng với Ân rằng: [QT 16] “Quẻ nhắc đến mộ gốc nhà anh, trong mộ có nữ quỷ, chẳng phải bá mẫu thì cũng là thúc mẫu của anh. Khi xưa mất mùa đói kém, các anh tham lợi ích là mấy thăng gạo, xô người ta xuống giếng, nghe tiếng kêu the thé, đẩy thêm tảng đá, ghè vỡ đầu ra, cô hồn oan ức đau đớn, tố cáo lên trời.” Ân chảy nước mắt mà nhận tội, [TT 9][QT 17] lại hỏi vạ này có hại đến đời sau hay không, Lộ nói không việc gì. [QT 18]
Cũng ở huyện Lợi Tào, có dân ở đồn điền bắt được hươu, bị trộm mất. Lộ nói: “Kẻ trộm là nhà thứ ba trong hẻm phía đông của nhà mày. Mày đi thẳng đến trước cửa, chọn lúc không có người, lấy một viên ngói, lén nhấc cái đòn thứ 7 ở đầu phía đông trong buồng xay gạo của họ, đặt viên ngói xuống. Không quá giờ cơm của ngày mai, hắn tự đem trả mày.” Đêm ấy, vợ tên trộm phát bệnh đau đầu, tráng nhiệt đau nhức, rồi cũng đến gặp Lộ để bói. Lộ bảo bị ma ám, đòi tên trộm trả lại chỗ cũ thứ đã lấy. Lộ ngầm bảo chủ con hươu đem về, rồi quay lại nhà tên trộm, bỏ viên ngói đi, thì vợ tên trộm khỏi bệnh. [BTC 3]
Vợ của người quận Quảng Bình là Lưu Phụng Lâm bệnh nặng, đã mua sẵn gỗ đóng quan tài. Tháng giêng, Phụng Lâm khiến Lộ xem bói, ông nói tháng 8 thì mất. Phụng Lâm không tin, mà người vợ cũng khá hơn. Đến tháng 8, bệnh trở nặng, quả nhiên như lời Lộ. [TT 10]
Lộ đến thăm An Bình thái thú Vương Cơ, ông ta lệnh cho Lộ làm quẻ, ông nói: “Sắp có người đàn bà ti tiện sanh 1 bé trai, rơi xuống đất liền chạy vào bếp rồi chết. Trên giường sắp có 1 con rắn lớn ngậm bút, mọi người xúm lại nhìn xem, chốc lát thì bỏ đi. Có con quạ bay vào nhà, đánh nhau với chim én, én chết, quạ đi. Đấy là 3 việc lạ.” Cơ cả sợ, hỏi lành gở thế nào. Lộ trả lời không đáng lo. Sau đó quả nhiên Cơ không gặp việc gì. [TT 11]
Bấy giờ đàn bà trong nhà của Tín Đô huyện lệnh kinh hãi, thay nhau bệnh tật, ông ta khiến Lộ bói cỏ. Lộ nói: “Góc tây của gian bắc nhà anh có 2 thây đàn ông, 1 người cầm mâu, 1 người cầm cung tên, đầu ở trong tường, chân ở ngoài tường. Người cầm mâu muốn đâm vào đầu, nên đầu đau nặng không nhấc lên được; người cầm cung tên muốn nhắm vào bụng, nên bụng đau quặn không thể ăn uống được. Ngày thì trôi dạt, đêm thì gây bệnh, nên khiến người nhà kinh hãi.” [TT 12] Vương Cơ lập tức sai Tín Đô lệnh đào nhà, xuống sâu 8 thước, quả nhiên tìm được 2 cái quan tài, 1 quan có mâu, 1 quan có cung bằng sừng và tên, tên đã lâu ngày, gỗ cũng mục nát, nhưng sắt với sừng vẫn còn. Bấy giờ Tín Đô lệnh dời hài cốt ra ngoài thành 10 dặm để chôn đi, trong nhà không còn bệnh tật. [TT 13][QT 19]
Lộ mới đến quận Thanh Hà, bói cho người đàn bà mất bò, nói bà ta đến bức tường cuối đường mặt tây, tìm trong các phần mộ, quả nhiên tìm được bò. Người đàn bà cho rằng có kẻ giấu bò, nên báo quan, nhờ vậy Ký Châu thứ sử Bùi Huy biết đến Lộ. [BTC 4]
Vợ của Hoa Dị là con gái của danh thần người Trác quận là Lư Dục (con Lư Thực), mắc bệnh, nhiều năm không đỡ. Lộ bói được viên quan coi ngựa đang đến chỗ Lư Dục, sẽ được sung vào đội quân nam chinh sắp đến, có thể chữa bệnh cho Lư thị. Dục lập tức dâng biểu giữ người ấy lại, đưa đến nhà họ Hoa để chữa trị cho con gái mình. Lư thị được chữa khỏi, Dục tâu xin trừ bỏ thân phận coi ngựa cho người ấy, bổ làm Thái y. [BTC 5]
Người quận Thanh Hà là Vương Kinh rời chức về nhà, gặp Lộ, cho biết mình gặp chuyện lạ, nhờ ông bói. Quẻ xong, Lộ nói: “Hào lành, không có gì lạ. Ban đêm anh đứng trước cửa phòng, có 1 vệt sáng như én, sẻ, bay vào trong ngực, râm ran phát ra tiếng, khiến tâm tình không yên, lần lữa cởi áo, kêu gọi đàn bà trong nhà, tìm kiếm ánh sáng còn sót lại.” Kinh cả cười: “Thật như anh nói.” Lộ nói: “Lành, là điềm báo thăng quan đấy, sắp ứng nghiệm rồi.” Ít lâu sau, Kinh được làm Giang Hạ thái thú. [TT 14]
Lúc mới nhận hịch triệu của Ký Châu thứ sử Bùi Huy, Lộ cùng em trai là Quản Quý Nho đi cùng xe, đến phía tây huyện Vũ Thành, tự bói lành gở, nói với Nho rằng: “Sắp thấy 3 con lửng trong thành cũ, như vậy thì vẻ vang.” Đi đến góc thành cũ phía tây sông, thấy rõ 3 con lửng ở bên thành, hai anh em đều vui mừng. [TT 15]
Lộ ghé thăm nhà Ngụy quận thái thú Chung Dục (con Chung Do, anh Chung Hội). Dục cậy tài, đem hơn 20 vấn đề tự cho là rất khó trong kinh Dịch ra hỏi, Lộ nghe gì đáp nấy, nói năng trôi chảy, khiến Dục khâm phục. Lộ nhân đó nói: “Bói có thể biết ngày sanh – mất của anh.” Dục khiến Lộ bói cỏ ngày sanh, ông nói ra không sai, Dục rất ngạc nhiên. Lộ đề nghị Dục xem nốt ngày mất, ông ta từ chối: “Sống là chuyện tốt, chết là chuyện xấu, buồn vui phân biệt, tôi không thể biết cả, cứ phó mặc trời, không phó mặc anh.” [TT 16][QT 20] Sau đó Dục hỏi Lộ: “Thiên hạ đang thái bình phải không?” Lộ nói: “Đương thời bốn chín bay lên trời, gặp đại nhân thì lợi, thần võ dựng nên, vương đạo sáng rõ, sao lo không thái bình?” Dục chưa hiểu lời Lộ, chẳng bao lâu, bọn Tào Sảng bị giết, mới nhận ra. [TT 17]
Ở Lạc Dương, có chàng trai giữa đường lạc mất vợ, Lộ bói, bảo anh ta vào sáng hôm sau, ở trong cửa Đông Dương, tìm người vác con heo sữa, níu lại mà đánh nhau với người ấy. Chàng trai làm theo, thành ra hai người ẩu đả, khiến con hẻo xổng ra bỏ chạy. Mọi người đuổi theo, con heo chạy vào nhà người ta, xô vỡ cái vò của chủ nhà, người vợ từ trong vò bước ra. [BTC 6]
Cũng ở Lạc Dương, có quan Đô úy trị nội sử mất đồ vật, Lộ bảo ông ta vào sáng hôm sau ra ngoài cửa nha môn mà nhìn, sẽ gặp một người, thì khiến người ấy chỉ trời vạch đất, giơ tay bốn hướng, tự sẽ tìm được. Đến chiều ông ta quả nhiên tìm được món đồ ấy ở chỗ cũ. [BTC 7]
Lộ về quận Bình Nguyên, thăm viếng láng giềng, gặp người chủ nhà lo buồn vì mấy lần gặp hỏa tai. Lộ bói, bảo chủ nhà vào ngày hôm sau ra đường nam, tìm một học trò đầu đội khăn, cưỡi xe trâu cũ, giữ anh ta lại qua đêm thì sẽ dứt tai vạ. Chủ nhà làm theo, bất chấp học trò nói có việc gấp xin đi, giữ lại bằng được. Học trò nghi sợ, không dám ngủ ở nhà trong, cầm đao ra gần cửa, tựa vào giữa 2 đống củi mà khép hờ mắt. Chợt có con vật nhỏ xông đến trước mặt học trò, trên tay cầm lửa. Học trò sợ, giơ đao chém chết con vật ấy, thì ra là con cáo. Từ ấy chủ nhà không gặp hỏa tai nữa. [BTC 8]
Đoán vật
Quán Đào huyện lệnh Gia Cát Nguyên được thăng làm Tân Hưng thái thú, Lộ đến đưa tiễn, khách khứa cũng đang tụ họp. [TT 18] Nguyên nhiều lần cùng Lộ chơi trò Xạ phúc mà không thắng nổi, nhân dịp này muốn phân thắng bại với ông. Bấy giờ có rất nhiều khách là người giỏi biện luận, một mình Lộ chống lại mọi người, nói đến khi tất cả chịu khuất phục mà vẫn chưa muốn dừng. [QT 21] Ngày hôm sau, Nguyên sắp lên đường, đề nghị Lộ chơi Xạ phúc. [QT 22] Nguyên tự tay đem trứng én, tổ ong, con nhện đậy lại, khiến Lộ đoán. Quẻ xong, Lộ nói: “Vật thứ nhất ngậm hơi đợi đổi, nương ở hiên nhà, trống mái nên hình, thong thả mở cánh, đây là trứng én vậy. Vật thứ 2 cả nhà treo ngược, cửa ngõ rất nhiều, giấu tinh nuôi độc, đến thu thì hóa, đây là tổ ong vậy. Vật thứ 3 chân dài run rẩy, nhả tơ thành màn, giăng lưới kiếm ăn, lợi vào đêm tối, đây là con nhện vậy.” Người ngồi đấy đều kinh ngạc. [TT 19]
Quan thái thú ở quận Bình Nguyên – quê cũ của Lộ – là Lưu Bân lấy túi đựng ấn và lông gà rừng đậy lại, khiến Lộ bói cỏ. Lộ nói: “Trong vuông ngoài tròn, năm màu nên văn, chứa vật báu giữ điều tín, đem ra dùng thì có phép tắc, đây là túi đựng ấn đấy. Núi cao chót vót, có chim mình đỏ, lông cánh tạp nhạp, hót không bỏ sáng, đây là lông gà rừng đấy.” [TT 20]
Thanh Hà huyện lệnh Từ Quý Long khiến người đi săn, đòi Lộ bói cỏ xem họ bắt được gì. Lộ nói: “Sắp bắt được thú nhỏ, không phải chim nhà, dẫu có nanh vuốt, nhỏ mà không mạnh, dẫu có vằn vện, sẫm mà không rõ, chẳng cọp chẳng trĩ, tên nó là lửng.” Người đi săn trở về, quả như lời Lộ. Quý Long lấy 13 món đồ, bỏ vào trong tráp, khiến Lộ đoán. Lộ nói đúng có 13 món, đầu tiên con gà, tiếp đến nhộng tằm, nhất nhất kể tên ra, chỉ lầm lược thưa ra lược bí mà thôi. [TT 21]
Nghe chim hót – Nghe gió hú
Lộ lại đến nhà Quách Ân, có con chim cưu đậu trên đầu xà, tiếng kêu rất buồn. Lộ nói: “Sắp có ông già từ phương đông đến, mang theo 1 con heo sữa, 1 bầu rượu. Chủ nhà dẫu vui, nhưng gặp chút chuyện.” Hôm sau quả nhiên có khách, như lời của Lộ. Ân đòi khách bớt rượu, kiêng thịt, cẩn thận củi lửa, rồi bắn gà để ăn, mũi tên xuyên qua khoảng trống cây cối, bắn trúng cánh tay bé gái mới vài tuổi, chảy máu gây sợ hãi. [TT 22] Ân bèn theo Lộ học đoán tiếng chim, Lộ nói ông ta tuy hiếu học, nhưng thiên phú ít ỏi, lại không hiểu âm luật, sợ khó dạy được. Lộ nói về sự thay đổi của gió 8 phương, số thứ tự của 5 âm, dùng luật – lữ để xác định âm Thương của các loài chim, lục giáp để xác định đầu mối của thời gian, xoắn xuýt vào nhau, ra vào không dứt. Ân yên lặng suy nghĩ, tập trung vài ngày, rốt cục không được. Ân nói: “Tài không ra gì, khó lòng tìm ra điềm báo ở nghề này.” Bèn thôi. [QT 23]
Lộ đến nhà người quận Bột Hải là An Đức huyện lệnh Lưu Trường Nhân, có chim thước đậu trên cửa mà kêu, tiếng rất gấp. Lộ nói: “Thước nói đông bắc có vợ mới giết chồng, đổ thừa chồng với láng giềng ở mé tây có vướng mắc, còn chưa hết ngày vào lúc hoàng hôn, người tố cáo sẽ đến.” Đến khi ấy, quả nhiên có người cùng Ngũ ở phía đông bắc đến tố cáo: vợ nhà láng giềng giết chồng, nói dối người ở nhà mé tây cùng chồng có hiềm khích, đến giết chồng mình. [TT 23]
Lộ đến nhà quan Điển nông hiệu úy của huyện Liệt Nhân là Vương Hoằng Trực, có gió lốc cao hơn 3 thước, từ tây nam bay đến, ở trong sân cuồn cuộn xoay vần, nghỉ chút lại nổi, hồi lâu mới dừng. Trực bèn hỏi Lộ, ông đáp: “Phương đông có viên lại coi ngựa đến, sợ rằng cha phải khóc con!” Hôm sau có viên lại ở Giao Đông đến, quả nhiên con trai của Trực mất. Trực hỏi duyên cớ, Lộ đáp: “Hôm qua là ngày Ất mẹo, ứng với trưởng tử đấy. Mộc rụng ở Thân, Đẩu kiến Thân, Thân phá Dần, ứng với việc tang đấy. Ban ngày vào giờ Ngọ lại có gió nổi lên, ứng với ngựa đấy. Ly là văn chương, ứng với viên lại đấy. Thân mùi là cọp, cọp là đại nhân, ứng với người cha đấy.” Có chim trĩ trống vào nhà Trực, đậu trên đầu cây cột treo phong linh, khiến ông ta rất lấy làm bất an, đòi Lộ làm quẻ; Lộ nói: “Đến tháng năm thì được thăng quan.” Bấy giờ là tháng ba, tới kỳ hẹn, Trực quả nhiên được làm Bột Hải thái thú. [TT 24]
Vào lúc được nghỉ, Lộ ghé thăm quan thái thú họ Nghê của quận Thanh Hà. Bấy giờ hạn hán, Nghê hỏi Lộ khi nào mưa, Lộ nói: “Đêm nay sẽ mưa.” Hôm ấy tạnh ráo, cả ngày không có vẻ gì, thuộc quan cùng Thanh Hà huyện lệnh ngồi đấy, đều cho rằng không đúng. Đến giữa canh một, trăng sao đều mất, gió mây cùng dậy, làm nên cơn mưa sảng khoái. Vì vậy Nghê thịnh soạn lễ chủ nhân, cùng nhau vui vẻ. [TT 25]
Xem tướng
Anh họ của Lộ là Quản Hiếu Quốc, sống ở Xích Khâu; Lộ đến thăm ông ta, gặp 2 người khách ở đấy. Sau khi khách đi, Lộ nói với Hiếu Quốc rằng: “Hai người này ở khoảng giữa thiên đình với miệng, tai đều có khí gở, tai vạ cùng đến, đôi hồn không mả, [TT 26] mùi nồng rượu độc, trời trong đêm tối, Khảm làm quan quách, Đoái làm xe tang, [QT 24] gởi hồn ở bể, xương trả về nhà, chẳng bao lâu nữa sẽ cùng chết đấy.” Vài mươi ngày sau, hai người uống rượu say, cùng ngồi xe trong đêm; bò giật mình nhảy khỏi đường, rơi xuống sông Chương; khiến cả hai chết đuối. [TT 27]
Ngày 28 tháng 12 ÂL năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được Lại bộ thượng thư Hà Yến mời đến nhà, khi ấy Đặng Dương cũng ở đấy. Yến nói với Lộ: “Nghe nói anh hiểu rõ thần diệu của hào, thử làm 1 quẻ, xem tôi có làm đến ngôi tam công hay không?” Lại hỏi: “Liên tiếp mơ thấy vài chục con nhặng, bâu ở trên mũi, đuổi không chịu đi, có ý gì chăng?” Lộ nói: “Ôi con vọ là loài chim hèn trên đời, khi chúng ăn quả dâu trong rừng, thì kêu tiếng vui tai, huống hồ lòng Lộ chẳng phải cỏ cây, sao dám không hết lòng? Xưa Nguyên, Khải giúp đỡ Trọng Hoa, ban ơn giữ hòa, Chu công phù tá (Chu) Thành vương, ngồi mà đợi sáng, mới có thể tạo phúc thiên hạ, muôn nước đều yên. Đây là điềm lành của chính đạo, chẳng phải bói toán có thể làm rõ. Nay chức vị của quân hầu nặng tựa núi non, thế như sấm sét, nhưng nhớ đức thì ít, sợ oai thì nhiều, e trái với đạo lý của việc cầu phúc nhờ thái độ cung kính cẩn thận. Còn mũi là quẻ Cấn, đây là núi ở giữa trời, cao mà không nghiêng, mới giữ được giàu sang lâu dài vậy. Mà nay con nhặng bẩn thối lại đậu ở đấy. Ngồi chỗ cao thì ngã, khinh hào kiệt thì mất, không thể không nghĩ đến cái số của kiêu căng, cái hạn của thịnh suy. Vậy nên núi ở dưới đất gọi là quẻ chữ Khiêm, sấm ở trên trời gọi là quẻ chữ Tráng; Khiêm thì nhiều bớt ít thêm, Tráng thì trái lẽ đừng làm. Chưa có chuyện bớt cái tôi mà không hiển hách vẻ vang, làm việc trái mà không tổn thương thất bại. Xin quân hầu trên kịp theo ý tứ 6 hào của Văn vương, dưới nghĩ về nghĩa lý thoán tượng của cha Ni, rồi sau đạt được ngôi tam công, đuổi được nhặng vậy.” [TT 28]
Lộ quay về quê nhà, kể lại mọi chuyện cho cậu là Hạ đại phu, bị cậu trách mắng. Lộ nói: “Cùng người chết nói chuyện, còn sợ cái gì?” khiến cậu càng giận. Hơn 10 ngày sau, nghe tin bọn Yến, Dương bị giết, cậu mới khâm phục. [TT 29]
Cậu hỏi Lộ: “Ngày trước gặp Hà, Đặng, đã có khí gở chưa vậy?” Lộ nói: “Dáng đi đứng của Đặng, gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, đứng dậy loạng choạng, như không chân tay, gọi là tướng quỷ táo. Vẻ hỏi han của Hà, hồn không giữ được nhà, máu không còn tươi màu, tinh thần vật vờ, dáng như củi khô, gọi là tướng quỷ u. Nên quỷ táo bị gió bắt, quỷ u bị lửa thiêu, là điềm báo tự nhiên, không thể che được.” [QT 25]
Quản Thần nói với Lộ rằng: “Đại tướng quân (tức Tư Mã Chiêu) đãi anh có vẻ hậu, có muốn giành lấy giàu sang không?” Lộ than dài nói: “Tôi biết mình có giới hạn, bởi trời cho tôi tài trí, không cho tôi tuổi thọ, e được chừng 47, 48 tuổi, không thấy con gái lấy chồng, con trai lấy vợ đấy. Nếu được bỏ qua lần này, tôi muốn làm Lạc Dương huyện lệnh, có thể khiến cho người qua đường không nhặt của rơi, trống kêu oan không cần vang lên. Nhưng e rằng phải đến Thái Sơn trị quỷ, không được trị người sống, làm sao đây!” Thần hỏi lý do, Lộ nói: “Tôi, trên trán không nuôi được cốt lõi, trong mắt được giữ được tinh hoa, mũi không có xà cột, cẳng không có gót chân, lưng không có ba chữ Giáp (甲), bụng không có 3 chữ Nhâm (壬), đây đều là bằng chứng không sống lâu. Lại thêm bản mệnh của tôi ở Dần, còn sanh vào đêm nguyệt thực. Trời có quy luật, không thể tránh khỏi, chỉ là người ta không biết mà thôi. Tôi trước sau giúp gánh cái chết cho hơn trăm người, chắc không sai đâu.” Tháng 2 ÂL năm sau, Lộ mất, hưởng thọ 48 tuổi. [TT 30]
Phong thủy
Lộ theo quân đội đi về phía tây, qua mộ nhà Quán Khâu Kiệm, dựa cây than thở, tinh thần không vui. Người ta hỏi lý do, Lộ nói: “Cây rừng dẫu tươi tốt, nhưng không có dáng vẻ lâu dài; văn bia dẫu hay ho, nhưng không có con cháu coi giữ. Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc, bốn nguy cơ đã đủ, phép đáng bị diệt tộc. Không quá 2 năm, sẽ ứng nghiệm thôi.” Rốt cục như lời ông. [TT 31]
Lý luận
Lộ đoán những việc lạ trong nhà Vương Cơ, thấy không có gì hại, nhân đó khuyên ông ta rằng: “Xưa cái vạc của Cao Tông, chẳng phải nơi chim trĩ đậu; cái sân của nhà Ân, chẳng phải chốn cây cỏ mọc. Vậy mà chim hoang đến đậu, Vũ Đinh là Cao Tông; dâu, kê mọc lên, Thái Mậu được hưng thịnh đấy. Dẫu biết 3 việc này chẳng phải điềm lành, mong phủ quân an thân dưỡng đức, chớ để ý nghĩ về quỷ thần làm vẩn đục tính lương thiện.” (ý nói Vương Cơ nên tu thân tích đức, sẽ tránh được ông trời trừng phạt) [QT 26]
Người cùng quê là Nãi Thái Nguyên hỏi Lộ rằng: “Anh khi trước giúp Vương phủ quân bàn việc lạ, nói thư tá già là rắn, linh hạ già là quạ. Đấy vốn là người, sao hóa làm loài vật vậy? Chỉ dựa vào hào – tượng, sao anh biết được?” Lộ đáp: “Nếu chẳng phải tính và đạo trời, vì sao trái với hào – tượng mà dốc gan ruột như thế? Ôi sự thay thế của vạn vật, không có mãi một dáng vẻ, sự đổi khác của con người, không có mãi một cách thức, hoặc lớn thành bé, hoặc bé thành lớn, vốn không có hơn kém. Ôi sự thay thế của vạn vật, là đạo của mọi thứ đấy. Ấy mà Hạ Cổn là cha của thiên tử, Triệu vương Như Ý là con của Hán Cao Tổ, mà Cổn thành gấu vàng, Như Ý thành chó xám, ấy đều là bậc chí tôn mà trở thành loài mõm đen đấy. Huống hồ con rắn hợp với vị trí Thìn Tị, con quạ đậu ở trung tâm mặt trời, đây là hình tượng rõ ràng trong bóng tối, tia sáng rực rỡ giữa ban ngày; còn như thư tá, linh tá đem tấm thân nhỏ mọn hóa thành rắn, quạ cũng không quá đáng đâu!” [QT 27]
Vương Kinh muốn khiến Lộ bói cỏ, nhưng tỏ ý nghi ngại, Lộ cười mà trách rằng: “Quân hầu là người hiển đạt ở châu, sao lại nói lời hẹp hòi! Xưa Tư Mã Quý Chủ có nói, người bói toán ắt phải tuân phép trời đất, mô phỏng 4 mùa, dựa vào nhân nghĩa. Phục Hy làm bát quái, Chu Văn vương lập 384 hào, nên thiên hạ được trị. Có bệnh thì chữa, sắp chết thì sống, có nạn thì tránh, có việc thì nên, gả con lấy vợ thì sanh nở tốt, há vì mấy ngàn tiền ư? Lấy đấy mà suy, là việc quan trọng vậy. Nếu là sự sáng tỏ của đạo thì thánh hiền không bỏ qua, huống hồ tôi là tiểu nhân, dám tránh né ư!?” Kinh chắp tay xin lỗi: “Lời trước là đùa mà thôi.” Vì thế Lộ làm quẻ, nói gì cũng đúng. [QT 28]
Lưu Trường Nhân có tài biện bác, trước đã nghe Lộ có thể hiểu tiếng chim, sau khi gặp thì căn vặn ông rằng: “Con người lên tiếng (âm) gọi là nói (ngôn), chim thú lên tiếng (thanh) gọi là kêu (minh), nên biết nói là sanh linh cao quý có trí tuệ, biết kêu là sanh vật thấp hèn không trí tuệ, sao lại cho rằng tiếng kêu của chim là lời nói, làm rối loạn sự khác biệt do thần minh bày đặt như vậy? Khổng tử nói: ‘Tôi không cùng bầy với chim thú’, tỏ rõ sự mèn mọn của chúng vậy.” Lộ đáp rằng: “Trời dẫu có đại tượng nhưng không thể nói, nên vần các sao ở trên, giạt thần minh ở dưới, xem xét gió mây để nắm bắt khác lạ, điều khiển chim thú để giao tiếp quỷ thần. Nắm bắt khác lạ ắt dò biết lúc nổi lúc chìm, giao tiếp quỷ thần ắt cảm ứng tiếng cung tiếng thương, cho nên Tống Tương (công) thất bại, 6 con chim nghịch đều bay lui; Bá cơ sắp chết cháy, chim báo trước tai vạ; 4 nước chưa nổi lửa, gió đông bắc đã dậy, chim đỏ bay cạnh mặt trời, tai vạ xảy ra ở Kinh Sở. Đây là trời cao sai khiến, bùa sáng của tự nhiên. Xét luật lữ để biết gốc gác của âm thanh, đối với những việc mong muốn sẽ không lầm lành gở. Xưa, tổ tiên nước Tần nhờ công mà được phong, (Giới) Cát Lô nghe tiếng, chép ở kinh Xuân Thu, đều là chuyện có thật trong sách vở, chẳng phải lời hão của thánh hiền đâu. Nhà Thương nổi lên, nhờ cái trứng chim én đấy; (Chu) Văn vương nhận mệnh, chim đỏ ngậm sách. Đây là điềm lành của thánh nhân, vận tốt của nhà Chu, sao có thể xem là hèn mọn được? Ôi nghe tiếng chim kêu, tinh hoa ở (tinh thứ) Thuần Hỏa, kỳ diệu ở 8 thần, tự trái lẽ thường, giống như Tử Lộ đối với việc chết sống vậy.” Trường Nhân nói: “Anh nói dẫu nhiều, hay mà không thật, chưa thể tin được.” Ít lâu sau Lộ đoán đúng tiếng kêu của chim thước, Trường Nhân mới khâm phục. [QT 29]
Bàn về thuật xem gió, Lộ từng nói: “Ôi gió tùy lúc mà động, hào theo tượng mà ứng, lúc ấy chịu sự sai khiến của thần linh, tượng ấy là cái dáng vẻ trong lúc ấy; đạo lý của một lúc, chẳng đáng xem là nạn.” Vương Hoằng Trực vốn có chút kiến thức, đến nay gặp cơn gió xoáy trong sân nhà, hỏi thế này đã là điềm báo tai dị hay chưa, Lộ đáp: “Đây chỉ là lông tóc của gió, sao đáng xem là lạ? Nếu các sao không sáng, chư thần đi loạn, 8 gió bùng phát, hơi giận bay vọt, núi lở đá bay, cây cối ngã rạp, tung bụi muôn dặm, ngẩng không thấy trời, chim thú trốn tránh, muôn dân sợ hãi, vì thế phải sai bọn Tử Thận lên đài cao, xem tình hình, xét tai nạn, đoán thời điểm, thế mới biết là suy nghĩ của thần sâu xa, con gió của linh đáng sợ!” [QT 30]
Kết thúc cuộc tranh luận ở buổi đưa tiễn Gia Cát Nguyên, mọi người tỏ ra khâm phục Lộ, có bậc tuấn kiệt đương thời là Thái Nguyên Tài hỏi ông rằng: “Vốn nghe nói anh làm chó, sao ra vẻ là rồng vậy?” Lộ đáp: “Tiềm dương chưa đổi, chẳng phải điều mà anh biết được, có chăng là chó mới nghe được tiếng rồng ru!” [QT 31] Sau khi Lộ đoán trúng cả 3 vật, Nguyên yêu cầu Lộ giải thích. Lộ bèn mở hào giãn lý, tách phú so tượng, nói đâu đúng đấy, diệu không thể tả. Nguyên và khách khứa chẳng ai sau khi nghe xong không khen ngợi, còn vui hơn cả chơi Xạ phúc. Trước khi lên đường, Nguyên răn Lộ rằng: “Tính anh thích rượu, uống cũng được đấy, nhưng không thể giữ mãi như thế, phải giảm bớt đi. Anh có tài biết tuốt, giải thích đã hay, thiên văn càng giỏi, nhưng vạ như dầu gặp lửa, không thể không cẩn thận. Dựa vào tài sáng suốt của anh, có thể dạo chơi khắp dải Ngân Hà, chẳng lo không được phú quý đâu.” Lộ nói: “Uống không hết rượu, trổ không hết tài, tôi muốn lấy rượu làm lễ, lấy tài làm ngu, còn lo gì nữa?” [QT 32]
Lộ từ biệt Bùi Huy để lên kinh nhằm tiếp nhận đề cử Hiếu liêm, được Huy mách nước về đề tài khảo sát của Lại bộ thượng thư Hà Yến, ông cho rằng Yến giỏi mấy thì cũng chẳng hơn được mình: “Hà nếu hay khéo, cũng chỉ biết chất vấn sơ sài bên ngoài, chưa đến mức nhập thần. Nếu nhập thần thì phải suy thiên nguyên, tính âm dương, dò huyền hư, vẹn u minh, rồi mới nhận ra đạo là vô cùng, chứ nào nhàn rỗi nói chơi. Muốn so sánh Lão, Trang hơn kém, mà xen hào, tượng để nói bóng gió, chỉ là kỹ xảo tầm thường, chứ chẳng phải hay khéo gì đâu!” [QT 33] Lộ đến Lạc Dương gặp Yến, quả nhiên Yến đem các đề tài ấy ra bàn luận, ông đều trả lời rõ ràng. Yến nói: “Anh bàn âm dương, đời này vô song.” Bấy giờ Đặng Dương cũng ngồi ở đấy, hỏi: “Anh đã nói là giỏi Dịch, mà không nhắc đến câu nào trong Dịch, sao vậy?” Lộ đáp ngay: “Ôi giỏi Dịch thì không bàn Dịch.” Yến khen rằng: “Có thể nói là lời trọng yếu không rườm rà vậy.” [QT 34] Nhân đó Yến mời Lộ làm quẻ đoán xem mình có làm đến tam công hay không? Lộ mượn chuyện xưa để khuyên răn hai người, [QT 35][LNK 1] Dương nói: “Đây là người già nói xàm.” Lộ đáp rằng: “Ôi người già không còn là người, nói xàm xem như chưa nói.” [TT 32] Yến từ tạ: “Biết một chút sự thần kỳ ấy, người xưa cho là khó; mới quen mà thổ lộ chân thành, người nay cho là khó. Nay anh một lúc làm được 2 việc khó, có thể nói là ‘đức hạnh mới thơm’. (Kinh) Thi chẳng nói đó sao: ‘Cất mãi trong lòng, ngày nào quên được.’” [QT 36] rồi nói: “Sang năm sẽ gặp lại.” (ý muốn tiễn khách) [TT 33]
Nhân dịp Lộ được nghỉ, Bùi Huy hỏi về Hà Yến, Lộ đánh giá: “Tài của ông ấy như nước trong bồn chậu, thấy được thì trong, còn không thấy thì đục. Dù hiểu biết rộng, mà không chuyên tâm, thì chẳng thành tài. Muốn lấy nước trong bồn chậu, tạo nên hình của tòa núi, thì không thể làm được, bởi vậy dùng trí tuệ để mê hoặc. Hễ nói về Lão, Trang thì khéo mà nhiều văn vẻ, nói về nghĩa cơ bản của Dịch thì đẹp mà nhiều dối trá; văn vẻ thì đạo hão, dối trá thì ý rỗng; gọi tài cao thì nông cạn mà khô kiệt, gọi tài vừa thì tản mạn mà đơn lẻ, Lộ cho là tài kém cỏi vậy.” Bùi Huy đồng tình. [QT 37]
Nghiệp huyện Điển nông hiệu úy Thạch Bao (cha của Thạch Sùng) hỏi Lộ rằng: “Nghe nói đồng hương của anh là Trạch Văn Diệu biết ẩn thân, chuyện ấy đáng tin hay không?” Lộ nói: “Đây chỉ là số của âm dương che dấu, ví được số ấy, thời bốn Nhạc có thể giấu, sông biển có thể trốn. Huống hồ thân hình 7 thước, dạo trong sự thay đổi, giãn mây mù để náu thân, bày Kim – Thủy để xóa vết, pháp thuật đủ số thì tính toán xong, không đáng gọi là khó.” Bao nói: “Muốn nghe sự diệu kỳ ấy, anh hãy bàn về thuật số của nó đi.” Lộ nói: “Ôi vật chẳng tinh hoa không phải thần linh, số chẳng diệu kỳ không phải pháp thuật, nên tinh hoa ấy là sự kết hợp của thần linh, diệu kỳ ấy là sự gặp gỡ của trí tuệ, kết hợp những thứ tỉ mỉ, có thể hiểu được thì hiểu, khó lòng nói ra thành lời. Thế nên Lỗ Ban không thể nói về tay mình, Li Chu không thể nói về mắt mình. Cái khó của việc không nói, Khổng tử nói rằng ‘sách không hết lời’, là sự tinh tế của lời đấy, ‘lời không hết ý’, là cái mầu nhiệm của ý đấy, ấy đều là bình luận về thần và diệu đấy. Xin lấy ví dụ để chứng tỏ. Ôi mặt trời lên cao, vần quanh muôn dặm, chẳng gì không rọi, đến khi lặn rồi, chỉ còn là tia sáng của hòn than nên không thể nhìn rõ gì nữa. Ngày mười lăm, ánh trăng trong vắt soi đêm, có thể nhìn thấy chỗ xa, đến lúc ban ngày thì sáng chẳng bằng gương. Nay trốn mặt trời, mặt trăng ấy ắt là số của âm dương, số của âm dương thông suốt muôn loài, chim thú còn thay đổi, huống hồ con người! Ôi được số ấy diệu, được thần ấy linh, không những người sống có chứng cứ, người chết cũng có điềm báo. Cho nên Đỗ Bá mặc áo mũ đỏ mà hiện hồn, Bành Sinh mượn thân thể heo mà hiện hình. Ấy nên người sống có thể ra cũng có thể vào, người chết có thể hiện cũng có thể nấp, đây là tinh khí của vật thể, hóa làm du hồn, người và quỷ cảm ứng lẫn nhau, số khiến cho như thế đấy.” Bao nói: “Tôi thấy lý sự về âm dương, không ai bằng anh, anh sao không ẩn thân?” Lộ nói: “Ôi chim trên không trung, yêu vẻ thanh cao, không muốn làm cá ở Giang, Hán; cá ở ao vực, yêu sự ướt át, không đổi làm chim cưỡi trên gió; do tính chất khác mà số phận không giống đấy. Kẻ hèn muốn tự sửa mình để hiểu rõ đạo lý, giữ thẳng mình để gần lẽ phải, thấy số không cho là khác, thấy thuật không cho là lạ, sớm tối nghiên cứu, chăm chăm ôn việc cũ, còn tìm bí ẩn, làm việc lạ, chưa nhàn rỗi để nghĩ đến.” [QT 38]
Bình Nguyên thái thú Lưu Bân muốn chú giải kinh Dịch, Lộ nói: “Lộ cho rằng cái kíp của việc chú giải kinh Dịch là kíp ở Thủy – Hỏa; tai nạn Thủy – Hỏa có kết quả tức thì, trong đục của Dịch lại kéo dài muôn đời, chẳng thể không trước thì ổn định tâm thần rồi sau đó cúi đầu suy nghĩ. Từ xưa đến nay, lắng nghe và lựa chọn lời bàn của thánh nhân, chưa có một phần của Dịch, Dịch làm sao có thể chú giải! Lộ không hiểu được thánh nhân vào đời xưa, làm sao phân biệt ngôi của Càn ở tây bắc, ngôi của Khôn ở tây nam. Ôi càn – khôn ấy là tượng của trời – đất, nhưng trời – đất lớn nhất, là vua – cha của thần linh, bụng chứa muôn vật, sanh sôi không đầu, sao đặt yên ổn 2 ngôi cùng 6 quẻ ngang hàng? Tượng thoán của Càn nói: ‘Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên.’ Ôi dòng (thống) ấy, là giống (thuộc) vậy, sao còn có ngôi khác vậy?” Bân nương theo các đạo lý trong Hệ từ truyện của kinh Dịch để chú giải, nhưng không nắm được yếu nghĩa. Lộ nhất nhất chỉ ra vấn đề, chỗ nào cũng phân tích đến cùng. Lộ nói: “Ôi Càn – Khôn ấy, là tổ tông của Dịch, nguồn gốc của thay đổi, nay minh phủ bàn trong đục mà có nghi ngờ, nghi ngờ thì không có thần linh, sợ chẳng phù hợp để chú Dịch đấy.” Lộ do vậy mà bàn về đạo của Bát quái và tinh hoa của hào – tượng, mở rộng đề tài, mọi thứ trở nên liên quan đến nhau. Bân thừa nhận là việc này quá khó, đành từ bỏ. Bân lại muốn theo Lộ học Xạ phúc, Lộ nói: “Nay minh phủ đã bị hư nhược tinh thần vì việc chú Dịch, thì nên dứt suy nghĩ ở việc bói cỏ thi. Bói cỏ là thuật số rõ ràng của trời đất, khế ước tối tăm của âm dương, cỏ thi đối với đạo là định ra lành gở của thiên hạ, sử dụng đối với thuật là thu lấy vụn vặt của thiên hạ. Nhỏ mọn, có thể nói là Dịch vậy.” [QT 39] Lưu Bân lại nói: “Đây là nha môn của quận, liên tiếp có chuyện xấu, khiến người ta sợ hãi, tại sao thế?” Lộ nói: “Quận này sở dĩ tên Bình Nguyên, bởi vốn có đồng, núi không có gỗ đá, đều là đất cả; ngậm Âm không thể nhả mây, ngậm Dương không thể đẩy gió, âm dương dẫu yếu, cũng có chút thần; chút thần không chân thực, tụ nhiều gian ác, theo loài tìm nhau, võng lượng nên bầy. Có lẽ nhân cuối đời Hán chiến tranh loạn lạc, thây phơi máu chảy, vấy bẩn núi gò, hồn mạnh cảm nhau, thay đổi không chừng nên nhân lúc chiều tối, có nhiều hình thù quái dị vậy. Xưa Hạ Vũ bày văn minh, không hãi lạ rồng vàng, Chu Vũ (vương) tin thời cơ, không ngờ vực gió mạnh, nay minh phủ đạo đức cao vời, thần không sợ ma, tự được trời giúp, chẳng gì không lợi, xin giữ phúc lành để sáng ân sủng vậy.” [TT 34][QT 40] Bân cho là phải, lại hỏi: “Dịch nói ‘cương kiện đốc thật, huy quang nhật tân’, ấy là giống nhau hay không?” Lộ đáp: “Tên không giống nhau, sớm mai là huy, giữa trưa là quang.” [QT 41]
Thanh Hà huyện lệnh Từ Quý Long cùng Lộ bàn luận về “rồng động thời mây Cảnh (mây lành) dậy, cọp gầm thời gió Cốc (gió đông) đến”, cho rằng sao Hỏa là rồng, sao Sâm là cọp, Hỏa hiện thì mây ứng, Sâm hiện thì gió đến, đây là cảm hóa của âm dương, không phải sự sắp đặt của rồng, cọp. Lộ nói: “Ôi bàn luận nên trước xét cái gốc, rồi sau tìm cái lý, lý mất thì then lệch, then lệch thì chuyên chủ vinh nhục. Nếu sao Sâm làm cọp, thì gió Cốc là gió của sương rét, gió của sương rét không có tên gió đông. Vậy nên lấy rồng là sao Dương, ngầm lấy làm Âm, u hồn thông với trời, khí giao hòa cảm động thần linh, hai vật phù hợp với nhau, nên có thể nổi mây. Ôi cọp ấy, sao Âm mà ở chỗ Dương, tựa cây gầm dài, hoạt động ở rừng nơi phương Tốn (đông nam), hai khí cảm động lẫn nhau, nên có thể vần gió. Cứ như nam châm hút được sắt, không thể hiện sự thần kỳ mà là loài kim tự tìm đến, có chứng cứ là chúng đã cảm ứng lẫn nhau. Huống hồ rồng có sự chuyển đổi giữa lặn và bay, cọp có sự thay đổi về văn minh, vời mây gọi gió, sao phải nghi ngờ?” Quý Long nói: “Ôi rồng nằm vực sâu, chẳng qua ở dưới đáy giếng, hổ gầm thê thiết, chẳng qua trong vòng trăm bước, hình thái – khí thế yếu ớt, thông suốt được chỗ gần, sao có thể giăng mây lành rồi ruổi gió đông?” Lộ nói: “Anh không thấy mồi Âm Dương nằm trong nắm tay, hình dáng không ra khỏi bàn tay, mà có thể trên dẫn lửa của Thái Dương, dưới dẫn nước của Thái Âm, trong lúc hít vào thở ra, hơi nước mênh mang. Ví như tinh khí cảm ứng lẫn nhau, thiên tượng ứng với 2 mồi (Âm Dương); ví như không cảm thông lẫn nhau, thì 2 phụ nữ sống cùng nhà, thái độ sẽ không hòa hợp. Đạo của tự nhiên, không có xa gần.” Quý Long nói: “Đời gặp việc chiến tranh, gây cảm ứng khiến gà, trĩ gáy trước, tại sao thế? Lại có kẻ bói toán, chỉ nhờ gà, trĩ vào giờ Tỵ (chi Tỵ tương ứng với rắn)?” Lộ nói: “Kẻ quyền quý có việc, gây cảm ứng với trời, trời đây là mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Chiến tranh khiến dân lo, gây cảm ứng với vật, vật đây là chim thú ở núi rừng. Ôi con gà là muông của quẻ Đoái, hành Kim là tinh hoa của nhà binh, chim trĩ là loài chim của quẻ Ly, loài thú là thần linh của võ lực, nên sao Thái Bạch tỏa sáng thì gà gáy, sao Huỳnh Hoặc di chuyển thì trĩ sợ, bọn chúng đều cảm ứng với số mà hành động. Còn phép thuật của nhà binh, bày ở lục giáp, lục giáp đổi dời, bói toán không chừng. Cứ lấy việc quan tài vua Tấn có tiếng bò rống, trống đá thời Hồng Gia kêu ắt có chiến tranh, thì không chỉ dựa vào gà, trĩ vậy.” Quý Long nói: “Lỗ Chiêu công năm thứ 8, có đá nói chuyện ở nước Tấn, Sư Khoáng cho rằng làm việc không đúng lúc, khiến lòng dân oán hận, mới có vật không nói được mà nói được, về lý có hợp hay không?” Lộ nói: “Tấn Bình công quá mức xa xỉ, chuộng sửa cung thất, chặt đẵn cây rừng, tàn phá vàng đá, sức dân đã hết, oán đến núi chằm, thần đau người cảm, 2 tinh đều làm, vàng đá hòa hơi, thì quẻ Đoái làm miệng lưỡi, con yêu của miệng lưỡi, động vào đá thiêng. Truyền rằng khinh trăm họ, sửa thành quách, thời loài Kim không tuân lẽ thường, là như thế này đấy.” Quý Long thán phục, giữ Lộ ở lại vài ngày. Lộ đoán việc săn đã nghiệm, Quý Long nói: “Anh dẫu thần kỳ, nhưng tôi không giấu nhiều vật đấy, sao có thể biết cả được?” Lộ nói: “Tôi cùng trời đất dò xét thần linh, dùng cỏ thi và mai rùa để giao tiếp với họ, ôm lấy mặt trời, mặt trăng mà dạo chơi chốn mịt mù, tột cùng thay đổi mà nhìn ngắm thứ chưa xảy đến, làm sao vật ở gần có thể bưng tai mắt?” Quý Long cả cười, “Anh đã không khiêm tốn, còn nhớ lần bị làm khó gần đây chứ?” (nhắc đến Gia Cát Nguyên?) Lộ nói: “Anh còn chưa biết thế nào là lời khiêm tốn, sao có thể bàn luận? Ôi trời và đất là quẻ của Càn – Khôn, cỏ (thi) và mai (rùa) là số của bói toán, (mặt) trời và (mặt) trăng là tượng của Ly – Khảm, sự thay đổi là hào của âm dương, chốn mịt mù là nguồn của việc hóa (làm) thần, thứ chưa đến là đầu (tiên) của cõi u ám, đây đều là giường mối của Chu Dịch, gì mà kẻ hèn không khiêm tốn?” [QT 42]
Lộ cho biết đêm nay sẽ mưa, Nghê thái thú chưa tin. Lộ nói: “Ngày 16 Nhâm Tý, là dịp Trực mãn, trong sao Tất đã có hơi nước, hơi nước phát ra, động vào Mão – Thìn, thế này ắt sẽ ứng nghiệm. Lại thêm trời sắp truyền hịch gọi năm sao, tuyên bố thẻ sao, bảo xuống sao Tỉnh, thông báo sao Cơ, sai triệu Lôi công, Điện mẫu, Phong bá, Vũ sư; các núi phát ra tiếng, những sông xói tinh hoa; Thiên hà rủ phúc lộc, thuồng luồng sinh linh tính; điện đỏ chằng chịt, nuốt nhả cõi mịt mù; tiếng sấm ù ù, hít thở linh tính mưa; gió đông thư thái, mọi nơi như một; thời gian ngắn ngủi, mọi vật nên hình. Trời có kỳ hạn, đạo có tự nhiên, không khó khăn gì.” Nghê nói: “Anh nói hay nhưng ít đáng tin, khiến tôi lấy làm băn khoăn.” Vì thế Nghê giữ Lộ ở lại, cho mời phủ thừa cùng Thanh Hà huyện lệnh (Từ Quý Long?). Nghê nói rằng nếu đêm nay trời mưa thì sẽ sửa sai bằng cách mời ăn 200 cân thịt nghé, nếu không mưa thì sẽ giữ lại 10 ngày. Lộ nói: “Nghĩ về phí tổn đi.” Đến lúc trời về chiều, vẫn không có chút mây, mọi người đều cười Lộ. Lộ nói: “Trên cây có gió tây thổi nhẹ, giữa cây có chim Âm hòa giọng. Lại thêm gió đông bắc nổi, nhiều chim cùng liệng, sẽ ứng nghiệm thôi.” Chốc lát, quả có gió đông bắc và chim hót. Mặt trời chưa lặn, đông nam có mây trên núi như tòa lầu trỗi dậy. Sau khi hoàng hôn, tiếng sấm vang trời. Đến giữa canh một, trăng sao đều mất, gió mây đều thịnh, khí trời từ 4 phương tụ họp, mưa lớn như thác đổ. Nghê cười nói với Lộ rằng: “Nói bừa mà trúng đấy, chẳng phải thần kỳ gì đâu.” Lộ nói: “Nói bừa mà trúng với ý trời, chẳng phải là khéo ru!” [QT 43]
Hoa Dị cho biết Lộ bói không nhất định trúng, mười được bảy, tám. Dị hỏi lý do, Lộ đáp: “Về lý thì không sai nhầm, nhưng người đến xin bói ngờ rằng không nói đầy đủ sự thật, nên mới như vậy!’ [BTC 9]
Quản Thần từng muốn theo Lộ học nghề bói mai rùa và xem thiên văn, Lộ nói: “Anh không thể học được đâu. Ôi bói mai rùa chẳng phải tinh hoa nhất thì không thể biết số của nó, chẳng phải kỳ diệu nhất thì không thể thấy đạo của nó; cứ học Hiếu kinh, Thi, Luận (ngữ) thì đủ làm tam công, không cần khôn vặt như thế.” Thần bèn không học nữa. Con em họ Quản cũng chẳng ai có tài năng để Lộ truyền lại thuật pháp của mình. [QT 44]
Đánh giá
Quách Ân mỗi khi nghe Lộ nói, chưa từng không tỏ ra cảm khái, nói rằng: “Nghe được lời bàn rất đúng của anh, khiến tôi quên đi bệnh tật, đêm ngày đuổi theo mà không kịp, sao lại xa thế!” [QT 45] Liệt Nhân huyện lệnh Bảo Tử Xuân thích kinh Dịch, hay bói toán, nghe được việc vợ của Lưu Phụng Lâm, cầu Lộ giải thích. Sau khi nghe Lộ nói xong, Tử Xuân tự nhận thì ra mình chẳng hiểu gì về kinh Dịch. [QT 46]
Lộ đến thăm An Bình thái thú Vương Cơ, cùng ông ta bàn về kinh Dịch. Sau vài ngày, Cơ rất lấy làm vui vẻ, nói với Lộ rằng: “Đã nghe anh tiếng giỏi bói, muốn cùng anh đàm đạo. Anh có dị tài ở đời, đáng được ghi vào tre lụa đấy.”[QT 47] Sau chuyện ở nhà Tín Đô lệnh, Cơ muốn theo Lộ học kinh Dịch. Dù Lộ đã giảng giải tường tận, tỉ mỉ, Cơ không thể hiểu nổi, nói: “Mới nghe anh nói, cứ ngỡ có thể nắm được, cuối cùng đều là rối rắm. Đây là nhờ trời cho, chứ không phải tự người biết được.” Rồi từ bỏ. [QT 48]
Vương Kinh mỗi khi bàn về Lộ, cho rằng ông nắm được tinh hoa của mây rồng, biết giữ gìn bản thân và giao thiệp quỷ thần, không chỉ có tài tổ hợp mà thôi. [QT 49]
Lưu Bân giữ Lộ ở lại với mình 5 ngày, không lo công việc, chỉ cùng ông thanh đàm. Bân nói: “Mấy lần cùng Hà Yến bàn Dịch cùng đạo của Lão, Trang, đến mức tinh thần trôi xa, đều hóa ra đối đáp theo lệ, rõ ràng như Kim – Thủy, sum suê như núi rừng, trái với khi ở cùng anh.” [QT 50]
Từ Quý Long che đậy 13 món đồ, mà Lộ đoán đúng cả, bèn than rằng: “Bói thì gọi là thánh, tính thì gọi là minh, há như thế này ru!” (ca ngợi Lộ thánh minh) [QT 51]
Quản Thần cho biết Lộ sau khi đến kinh thành, đạt được tiếng tăm và quyền thế to lớn. Kẻ quyền quý chẳng ai không muốn cùng Lộ kết giao, khách khứa như mây, nhưng Lộ không kể sang hèn, đều lấy lễ mà tiếp đãi, cho rằng nếu không yểu mạng, thành tựu của Lộ chẳng thể lường được. [QT 52] Nhờ vậy, Lộ giao thiệp với các danh sĩ đương thời là Bùi Huy, Hà Yến, Đặng Dương và anh em Lưu Thực, Lưu Trí, rất lấy làm vinh dự, [QT 53] nhưng Bùi Tùng Chi phản bác trường hợp của anh em họ Lưu, nhận định họ là danh Nho theo lối chính thống, không quan tâm đến Huyền học. [BTC 10] Quản Thần so sánh việc Lộ mất trong an lành thì hơn hẳn cái chết khổ sở của Kinh Phòng đời Tây Hán, ở phương diện thiên văn thì không kém Cam Công, Thạch Thân Phu, xạ phúc thì không kém Đông Phương Sóc, xem tướng thì không kém Hứa Phụ, Đường Cử. [QT 54] Quản Thần kể rằng quan thứ sử họ Mạnh của Kinh Châu (?) từng đòi Lộ giải thích phương pháp đoán vật của Đông Phương Sóc, nghe xong thì thở dài mà nói: “Tôi nghe anh bàn, tinh thần nhảy dựng, sợ muốn bay mất, sao mà sâu xa đến như vậy!” [QT 55]
Nghi vấn về năm sanh
Bùi Tùng Chi chỉ ra khác biệt ở Tam quốc chí và Biệt truyện: Trần Thọ chép Lộ mất năm Chánh Nguyên thứ 3 (256), hưởng thọ 48 tuổi, tức ông phải sanh vào năm Kỷ Sửu, hiệu Kiến An thứ 14 (209); Quản Thần chép lời của Lộ rằng “bản mệnh ở Dần”, tức ông phải sanh vào năm Canh Dần, hiệu Kiến An thứ 15 (210). Ngoài ra, năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được cử Tú tài, Biệt truyện kể rằng ông khi ấy 36 tuổi, là lầm vậy. [BTC 11]
Trước tác
Tác phẩm của Lộ để lại không nhiều. Quản Thần kể rằng sau khi ông nhận quan chức thì sống một mình ở nha môn, không đem theo con em để hầu hạ. Người đời ngỡ rằng Lộ có sách quý nên mới thành tài, vào lúc ông mất, nhân lúc bên cạnh không có thân nhân, thừa cơ trộm đi rất nhiều, đến nỗi hàng ngàn chỉ còn hơn 30 quyển. [QT 56]
Đời sau ghi nhận một số tác phẩm của Lộ như sau: Chu Dịch lâm 4 quyển, Điểu tình nghịch chiêm 1 quyển, [CDT 1][TDT 1]Chu Dịch thông linh quyết 2 quyển, Chu Dịch thông linh yếu quyết 1 quyển. [TU 1] Ngày nay đều không còn.
Thành ngữ liên quan
Lão sanh thường đàm (老生常谈) ý nói những lời lẽ lặp lại, cũ kỹ và nhàm tai.
Yếu ngôn bất phiền (要言不烦), ý nói chuyện quan trọng thì đừng nói năng rườm rà.
Hổ khiếu phong sanh, long đằng vân khởi (虎啸风生,龙腾云起), ý nói anh hùng gặp thời mà xuất hiện, đạt được ảnh hưởng lớn lao đối với xã hội.
Gia đình
Em trai Quản Quý Nho.
Em trai Quản Thần, tự nhận được Lưu Thực khen có tài của Hiếu liêm, [BTC 12] được làm đến Châu chủ bộ, Bộ tòng sự. Đầu những năm Thái Khang (280 – 289), mất. [BTC 13] Thần là tác giả của Quản Lộ biệt truyện. [CDT 2][TDT 2][TU 2]
Trong văn hóa
Lộ là nhân vật phụ trong Tam quốc diễn nghĩa, xuất hiện ở hồi 69 và hồi 106.
Hồi 69, Lộ được Hứa Chi tiến cử với Tào Tháo. Lời kể của Hứa Chi có nội dung được tổng hợp từ Biệt truyện và phần khảo xét của Bùi Tùng Chi. Sau khi gặp Tào Tháo, Lộ bói trúng 3 việc: Hạ Hầu Uyên tử trận, Lỗ Túc bệnh mất và hỏa hoạn ở Hứa Đô. [LQT 1] Câu chuyện này hoàn toàn được hư cấu vì khi đó Lộ mới lên 8 tuổi.
Hồi 106, Lộ trò chuyện với Hà Yến, Đặng Dương, dự báo họ sắp gặp tai vạ. Quả nhiên như vậy. [LQT 2]
Trần Thọ trước tác – Tam quốc chí, tài liệu đã dẫn:
^Trần Thọ, tlđd: Quản Lộ tự Công Minh, người Bình Nguyên đấy.
^Trần Thọ, tlđd: Cha làm Lang Da Tức Khâu [a] trưởng... Cha làm Lợi Tào [b]...
^Trần Thọ, tlđd: Vào lúc bấy giờ, láng giềng của Lộ, cửa ngoài không đóng, không trộm cắp lẫn nhau đấy. Thanh Hà thái thú Hoa Biểu triệu Lộ làm Văn học duyện [c].
^Trần Thọ, tlđd: Người quận An Bình là Triệu Khổng Diệu tiến cử ông với Ký Châu thứ sử Bùi Huy rằng: “Lộ tính hòa nhã rộng rãi, không ghen ghét với đời, ngửa ngắm thiên văn [i] hay như Cam Công, Thạch Thân, cúi xem Chu Dịch ngang với (Tư Mã) Quý Chủ[j]. Nay sứ quân sáng suốt đang chú tâm chốn hẻo lánh [k], để ý nơi xa xôi [l], Lộ nên đáp lại tiếng gọi trong bóng râm [m], nhận lấy cơ hội lập công danh [n].” Vì thế Huy vời Lộ làm Văn học tòng sự, sau khi gặp mặt thì rất hài lòng mà kết làm bạn. Lộ dời chức đến quận Cự Lộc (thuộc Ký Châu), được thăng làm Trị trung, Biệt giá.
^Trần Thọ, tlđd: Năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được cử Tú tài [ae].
^Trần Thọ, tlđd: Tháng 9 năm ấy, làm Thiếu phủ thừa. Tháng 2 năm sau, mất, tuổi 48.
^Trần Thọ, tlđd: Dung mạo xấu xí, không uy nghi [af] mà ham rượu, ăn uống nói đùa, không cự tuyệt [ag] người khác biệt thân phận [ah], nên người đời phần nhiều thì yêu mà không kính đấy.
^Trần Thọ, tlđd: Dân huyện Lợi Tào là ba anh em Quách Ân đều bị khoèo, khiến Lộ thệ xem lý do là gì.
^Trần Thọ, tlđd: Lộ rằng: “Quẻ nhắc đến mộ gốc nhà anh, trong mộ có nữ quỷ, chẳng phải bá mẫu thì cũng là thúc mẫu của anh. Khi xưa mất mùa đói kém, tham lợi ích là mấy thăng gạo, xô người ta xuống giếng, nghe tiếng kêu the thé, đẩy thêm tảng đá, ghè vỡ đầu ra, cô hồn đau oan, tố cáo lên trời.” Vì thế Ân chảy nước mắt phục tội.
^Trần Thọ, tlđd: Vợ của người quận Quảng Bình là Lưu Phụng Lâm bệnh nặng, đã mua quan khí. Bấy giờ là tháng giêng, Phụng Lâm khiến Lộ xem bói, ông nói: “Mệnh tận vào lúc giữa trưa ngày Tân Mẹo, tháng 8.” Phụng Lâm không cho là đúng, mà bệnh của vợ cũng dần bớt, đến mùa thu phát động, đúng như lời Lộ.
^Trần Thọ, tlđd: Lộ vãng kiến An Bình thái thú Vương Cơ, Cơ lệnh làm quẻ, Lộ nói: “Sắp có người đàn bà ti tiện [bd] sanh 1 bé trai, rơi xuống đất liền chạy vào trong bếp rồi chết. Rồi trên giường sắp có 1 con rắn lớn ngậm bút, mọi người xúm lại nhìn xem, chốc lát thì bỏ đi. Lại có con quạ bay vào nhà, đánh nhau với chim én, én chết, quạ đi. Đấy là 3 việc lạ.” Cơ cả sợ, hỏi ông cát hung. Lộ nói: “Chẳng qua phòng khách lâu ngày, si mị – võng lượng tác quái [be] đấy. Đứa trẻ mới sanh đã biết chạy, không phải tự chạy, chẳng qua loài yêu Tống Vô Kỵ [bf] đem nó vào bếp đấy. Rắn lớn ngậm bút, là thư tá già đấy. Quạ đánh nhau với én, là linh hạ [bg] già đấy. Nay trong quẻ thấy tượng mà không thấy điềm gở, chẳng có đặc trưng của yêu gây hại, không việc gì phải lo.” Sau rốt không có hoạn.
^Trần Thọ, tlđd: Bấy giờ phụ nữ nhà Tín Đô [bh] lệnh kinh khủng, thay nhau bệnh tật, ông ta khiến Lộ bói cỏ. Lộ nói: “Góc tây của gian bắc nhà anh có 2 thây đàn ông, 1 người cầm mâu, 1 người cầm cung tên, đầu ở trong tường, chân ở ngoài tường. Người cầm mâu muốn đâm vào đầu, nên đầu đau nặng không nhấc lên được; người cầm cung tên muốn nhắm vào bụng, nên bụng đau quặn không thể ăn uống được. Ngày thì trôi dạt, đêm thì gây bệnh, nên khiến người nhà kinh hãi.
^Trần Thọ, tlđd: Vì vậy đào dời hài cốt, trong nhà đều khỏi.
^Trần Thọ, tlđd: Thanh Hà Vương Kinh rời quan về nhà, cùng Lộ tương kiến. Kinh nói: “Gần đây có việc lạ, khiến tôi rất không vui, muốn phiền làm quẻ.” Quẻ thành, Lộ nói: “Hào cát, không có gì lạ. Ban đêm anh đứng trước cửa phòng, có 1 vệt sáng như én, sẻ, bay vào trong ngực, râm ran phát ra tiếng, khiến tâm tình không yên, lần lữa cởi áo, kêu gọi đàn bà trong nhà, tìm kiếm ánh sáng còn sót lại.” Kinh cả cười: “Thật như anh nói.” Lộ nói: “Cát, là điềm báo thăng quan đấy, sắp ứng nghiệm rồi.” Ít lâu, Kinh làm Giang Hạ thái thú.
^Trần Thọ, tlđd: Mới ứng châu triệu, cùng em là Quý Nho đi cùng xe, đến phía tây huyện Vũ Thành, tự bói lành gở, nói với Nho rằng: “Sắp thấy 3 con li trong thành cũ, như vậy thì vẻ vang.” Đi đến góc thành cũ phía tây sông, thấy rõ 3 con li ở bên thành, hai anh em đều vui mừng.
^Trần Thọ, tlđd: Ban đầu Lộ ghé thăm Ngụy quận thái thú Chung Dục, cùng luận nghĩa của Dịch, Lộ nhân đó nói: “Bói có thể biết ngày sanh – mất của anh.” Dục khiến bói cỏ ngày tháng sanh của ông ta, như lời không sai lầm. Dục cả ngạc nhiên, nói: “Anh đáng sợ đấy. Chết phó mặc trời, không phó mặc anh.” Rồi không bói cỏ nữa.
^Trần Thọ, tlđd: Dục hỏi Lộ: “Thiên hạ đang thái bình phải không?” Lộ nói: “Đương thời [bp] bốn chín bay lên trời, gặp đại nhân thì lợi, [bq] thần võ dựng nên, vương đạo sáng rõ, sao lo không bình?” Dục chưa hiểu lời Lộ, không lâu, bọn Tào Sảng bị tru, mới giác ra được.
^Trần Thọ, tlđd: Quán Đào lệnh Gia Cát Nguyên thăng Tân Hưng thái thú, Lộ đến tổ tiễn [bt] ông ta, tân khách đều tụ họp.
^Trần Thọ, tlđd: Nguyên tự đứng dậy lấy trứng én, tổ ong, con nhện đậy lại, khiến xạ phúc. Quẻ thành, Lộ rằng: “Vật thứ nhất ngậm hơi đợi đổi, nương ở hiên nhà, trống mái nên hình, lông cánh thư thả mở ra, đây là trứng én vậy. Vật thứ 2 cả nhà treo ngược, cửa ngõ rất nhiều, giấu tinh nuôi độc, đến thu thì hóa, đây là tổ ong vậy. Vật thứ 3 chân dài run rẩy, nhả tơ thành màn, giăng lưới kiếm ăn, lợi vào đêm tối, đây là con nhện vậy.” Cử tọa kinh hỷ.
^Trần Thọ, tlđd: Bình Nguyên thái thú Lưu Bân lấy túi ấn và lông sơn kê đậy lại, khiến Lộ bói cỏ. Lộ nói: “Trong vuông ngoài tròn, năm sắc thành văn [ca], ngậm báu giữ tín, xuất thời hữu chương [cb], đây là túi ấn đấy. Núi cao chót vót [cc], có chim mình đỏ, lông cánh huyền hoàng [cd], hót không bỏ sáng, đây là lông sơn kê đấy.”
^Trần Thọ, tlđd: Thanh Hà [ce] lệnh Từ Quý Long khiến người đi săn, lệnh Lộ bói cỏ xem họ bắt được gì. Lộ nói: “Sắp bắt được thú nhỏ, không phải chim nhà, dẫu có nanh vuốt, nhỏ mà không mạnh, dẫu có văn chương [cf], sẫm mà không rõ, chẳng cọp chẳng trĩ, tên nó là lửng.” Người đi săn trở về, quả như lời Lộ. Quý Long lấy 13 món đồ, bỏ vào trong tráp, khiến Lộ xạ. Nói: “Trong túi lẫn lộn có 13 món đồ.” Trước nói con gà, sau kể nhộng tằm, rồi nhất nhất kể tên ra, chỉ đem lược thưa (sơ) làm lược bí (tì) mà thôi.
^Trần Thọ, tlđd: Lộ lại đến Quách Ân gia, có phi cưu đến trên đầu xà, tiếng kêu rất buồn. Lộ rằng: “ông già từ phương đông đến, mang theo 1 con heo sữa, 1 bầu rượu. Chủ nhà dẫu vui, nhưng gặp chút chuyện.” Hôm sau quả nhiên có khách, như lời của Lộ. Ân đòi khách bớt rượu, kiêng thịt, cẩn thận củi lửa, rồi bắn gà để ăn, mũi tên xuyên qua khoảng trống cây cối, bắn trúng cánh tay bé gái mới vài tuổi, chảy máu gây sợ hãi.
^Trần Thọ, tlđd: Lộ đến nhà An Đức lệnh Lưu Trường Nhân, có chim thước đậu trên cửa mà kêu, tiếng rất gấp. Lộ rằng: “Thước nói đông bắc có vợ mới giết chồng, đổ thừa chồng với láng giềng ở mé tây [ch] có vướng mắc [ci], còn chưa hết ngày vào khoảng của Ngu Uyên [cj], người tố cáo sẽ đến.” Đến khi ấy, quả nhiên có người cùng Ngũ [ck] ở phía đông bắc đến tố cáo: vợ nhà láng giềng giết chồng, nói dối người ở nhà mé tây cùng chồng có hiềm khích, đến giết chồng mình.
^Trần Thọ, tlđd: Lộ đến nhà của Liệt Nhân điển nông [cl] Vương Hoằng Trực, có gió lốc cao hơn 3 thước, từ hướng Thân bay đến, ở trong sân cuồn cuộn xoay vần, nghỉ chút lại nổi, hồi lâu mới dừng. Trực bèn hỏi Lộ, ông rằng: “Phương đông có viên lại coi ngựa đến, sợ rằng cha phải khóc con, biết làm sao được!” Hôm sau có viên lại ở Giao Đông đến, quả nhiên con trai của Trực mất. Trực hỏi duyên cớ, Lộ rằng: “Hôm qua là ngày Ất mẹo, ứng với trưởng tử đấy. Mộc rụng ở Thân, Đẩu kiến Thân [cm], Thân phá Dần, ứng với tang ma đấy. Ban ngày vào giờ Ngọ lại có gió nổi lên, ứng với ngựa đấy. Ly là văn chương, ứng với viên lại đấy. Thân mùi là cọp, cọp là đại nhân, ứng với người cha đấy.” Có chim trĩ trống vào nhà Trực, đậu trên đầu linh trụ, khiến ông ta rất lấy làm bất an, đòi Lộ làm quẻ; Lộ nói: “Đến tháng năm thì được thăng quan.” Bấy giờ là tháng ba. Tới kỳ hẹn, Trực quả nhiên làm Bột Hải thái thú.
^Trần Thọ, tlđd: Sau được nghỉ, Thanh Hà Nghê thái thú. Bấy giờ thiên hạn, Nghê hỏi Lộ vũ kỳ, Lộ nói: “Đêm nay sẽ mưa.” Hôm ấy tạnh ráo, ngày không có vẻ gì, phủ thừa [cn] cùng lệnh đang ngồi, đều bảo không đúng. Đến giữa canh một, trăng sao đều mất, gió mây cùng khởi, làm nên khoái vũ. Vì vậy Nghê thịnh tu lễ chủ nhân, cùng nhau hoan lạc.
^Trần Thọ, tlđd: Tộc huynh của Lộ là Hiếu Quốc, sống ở Xích Khâu; Lộ đến thăm ông ta, gặp 2 người khách. Sau khi khách đi, Lộ nói với Hiếu Quốc rằng: “Khoảng giữa thiên đình [co] với miệng, tai của hai người này đều có hung khí, tai vạ cùng đến, đôi hồn không mả,
^Trần Thọ, tlđd: hồn gởi ở bể, cốt về ở nhà, chẳng bao lâu nữa sẽ cùng chết đấy.” Thêm vài chục ngày, hai người uống rượu say, cùng ngồi xe trong đêm, bò giật mình nhảy khỏi đường, rơi xuống sông Chương, đều chết đuối đấy.
^Trần Thọ, tlđd: Ngày 28 tháng 12 ÂL, Lộ được Lại bộ thượng thư Hà Yến mời, Đặng Dương cũng ở nhà của Yến. Yến nói với Lộ: “Nghe nói anh hiểu rõ thần diệu của hào, thử làm 1 quẻ, xem tôi có làm đến ngôi tam công hay không?” Lại hỏi: “Liên tiếp mơ thấy vài chục con nhặng [cq], bâu ở trên mũi, đuổi không chịu đi, có ý gì chăng?” Lộ nói: “Ôi con vọ là loài chim hèn của thiên hạ, khi chúng ăn quả dâu trong rừng, thì kêu tiếng vui tai [cr], huống hồ lòng Lộ chẳng phải cỏ cây, sao dám không tận trung? Xưa Nguyên, Khải giúp Trọng Hoa, ơn huệ hòa thuận [cs], Chu công đỡ (Chu) Thành vương, ngồi mà đợi sáng [ct], mới có thể gởi phúc [cu] lục hợp [cv], muôn nước đều yên. Đây là điềm lành của việc đi đường ngay [cw], chẳng phải bặc thệ có thể làm rõ. Nay vị của quân hầu nặng tựa sơn nhạc, thế như lôi điện, nhưng nhớ đức thì ít, sợ oai thì nhiều [cx], e chẳng phải đức nhân nhiều phúc của sự cung kính cẩn thận [cy]. Còn mũi là quẻ Cấn, đây là núi ở giữa trời [cz], cao mà không chênh, nên giữ được giàu sang lâu dài vậy. Nay con nhặng bẩn thối mà đậu ở đấy. Ngồi chỗ cao thì ngã, khinh hào kiệt thì mất, không thể không nghĩ cái số của hại doanh [da], cái hạn của thịnh suy. Vậy nên núi ở dưới đất gọi là Khiêm, sấm ở trên trời gọi là Tráng; Khiêm thì nhiều bớt, ít thêm, Tráng thì trái lẽ đừng làm [db]. Chưa có bớt cái tôi mà không hiển hách vẻ vang, làm việc trái mà không tổn thương thất bại. Xin quân hầu trên kịp theo chỉ của 6 hào của Văn vương, dưới nghĩ về nghĩa của thoán tượng của cha Ni [dc], rồi sau tam công có thể quyết, nhặng có thể đuổi vậy.”
^Trần Thọ, tlđd: Lộ về ấp xá, kể lại cuộc nói chuyện với cậu [dd], cậu mắng Lộ nói năng gay gắt [de]. Lộ nói: “Cùng người chết nói chuyện, còn sợ cái gì?” cậu cả giận, cho rằng Lộ điên rồ trái lẽ. Đầu năm, gió lớn tây bắc, cát bụi đầy trời, hơn mười ngày, nghe tin Yến, Dương đều tru [df], sau đó cậu mới phục.
^Trần Thọ, tlđd: Năm Chánh Nguyên thứ 2, đệ Thần nói với Lộ rằng: “Đại tướng quân [di] đãi anh có vẻ hậu, có muốn giành lấy giàu sang không?” Lộ than dài nói: “Tôi biết mình có giới hạn, bởi trời cho tôi tài minh, không cho tôi niên thọ, khủng trong khoảng 47, 48, không thấy con gái lấy chồng, con trai lấy vợ đấy. Nếu được miễn lần này, tôi muốn làm Lạc Dương lệnh, có thể khiến cho đường không nhặt của rơi, dùi, trống không kêu oan [dj]. Nhưng khủng đến Thái Sơn trị quỷ, không được trị người sống, làm sao đây!” Thần hỏi cớ, Lộ nói: “Tôi, trên trán không nuôi được cốt, trong mắt được giữ được tinh, mũi không có xà cột, cẳng không có thiên căn [dk], lưng không có ba Giáp, bụng không có 3 Nhâm, đây đều là nghiệm của không thọ. Lại thêm bản mệnh của tôi ở Dần, còn sanh vào đêm nguyệt thực [dl]. Trời có thường số [dm], không thể được húy, chỉ là người ta không biết mà thôi. Tôi trước sau giúp gánh cái chết cho hơn trăm người, chắc không sai đâu.”...Tháng 2 năm sau, tốt, tuổi bốn mươi tám.
^Trần Thọ, tlđd: Lộ theo quân tây hành, qua mộ nhà Quán Khâu Kiệm, dựa cây ai ngâm, tinh thần không vui. Người ta hỏi cớ, Lộ nói: “Cây rừng dẫu tươi, không có hình thế ưng lâu dài; văn bia dẫu hay, không có hậu nhân ưng coi giữ. Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc [dn], bốn nguy đã đủ, phép đáng diệt tộc. Không quá 2 năm, sự ứng nghiệm đến vậy.” Rốt cục như lời ông.
^Trần Thọ, tlđd: Dương nói: “Đây là thường đàm của lão sanh.” Lộ đáp rằng: “Ôi lão sanh xem như không sanh, thường đàm xem như không đàm.”
^Trần Thọ, tlđd: Yến nói: “Sang năm sẽ lại gặp gỡ.”
^Trần Thọ, tlđd: Bân nói: “Đây là quan xá của quận, liên tiếp có biến quái [go], lý ấy do đâu?” Lộ nói: “Ngờ rằng nhân loạn lạc cuối đời Hán, binh mã nhiễu nhương, thây lính đổ máu, ô nhiễm gò núi, vậy nên trời tối, có nhiều quái hình đấy. Minh phủ [gp] đạo đức cao diệu, tự được trời giúp [gq], xin yên bách lộc [gr], để sáng hưu sủng [gs].”
^Quản Thần, tlđd: Lộ được Hoa Thanh Hà triệu, làm Bắc huỳnh văn học, nhất thì sĩ hữu chẳng ai không than thở hâm mộ.
^Quản Thần, tlđd: Người quận An Bình là Triệu Khổng Diệu tính sáng suốt lại có kiến thức, cùng Lộ có quan hệ Quản (Trọng), Bảo (Thúc Nha), nên từ huyện Phát Can đến trường quận gặp ông, nói: “Tấm lòng của anh sâu rộng, nên người đã khuất bằng một nửa, người còn sống không so được, phải rũ bỏ sự tầm thường mà vọt lên, bay lượn trên trời cao [e], sao lại ở nơi này. Nghe tin của anh, khiến tôi ăn không thấy ngon miệng đấy. Bùi sứ quân ở Ký Châu tài năng trong sạch, hiểu biết huyền hư [f], thường bàn luận kinh Dịch cùng đạo của Lão, Trang, chưa từng không chuyên chú như những bậc Nghiêm, Cù đấy [g]. Lại xem trọng tôi, có thể tin tưởng lẫn nhau. Nay sắp đến thăm, vì anh bày tỏ lòng thành cảm hóa cọp, chẻ vỡ đá.” Lộ nói: “Tôi không phải rồng ở vực sâu, sao có thể khiến ban ngày xảy ra tối tăm [h]? Nếu anh có thể nổi gió đông, dấy mây sớm, chí của tôi không lùi.”
^Quản Thần, tlđd: Vì vậy (Triệu Khổng Diệu) đến gặp Bùi sứ quân. Sứ quân nói: “Gương mặt của anh làm sao mà tiều tụy vậy?” Khổng Diệu nói: “Trong mình có bệnh không thuốc chữa [o], nhưng thấy ở quận Thanh Hà có một con Kỳ Ký [p], chịu giam cầm ở chuồng phía sau nhiều năm, cách xa Vương Lương [q], Bá Nhạc[r] 180 dặm, không được phát huy khả năng [s], dấy lên gió bụi, do đó [t] mà tiều tụy.” Sứ quân hỏi: “Kỳ Ký bây giờ ở đâu?” Khổng Diệu nói: “Người quận Bình Nguyên là Quản Lộ, tự Công Minh, 36 tuổi, tính hòa nhã rộng rãi, không ghen ghét với đời, có thể nói là bậc hùng trong kẻ sĩ. Ngửa ngắm thiên văn hay như Cam Công, Thạch Thân, cúi xem Chu Dịch ngang với Quý Chủ, dạo chơi đạo thuật, hiểu thần vô cùng, có thể nói là bậc anh trong kẻ sĩ. Ôm ngọc thô nước Sở [u], ấp bảo vật dạ quang, mà quận Thanh Hà chọn làm Bắc huỳnh văn học, có thể nói là đau lòng nhức đầu đấy. Sứ quân đang muốn để ý nơi xa xôi, chú tâm chốn hẻo lánh, muốn khiến bậc minh chúa không phải trị vì đơn độc, kẻ ẩn dật không bị bỏ sót lâu ngày, gió lớn thổi đi thật xa [v], chẳng ai không chịu khuất phục [w], nên khiến Lộ đáp lại tiếng gọi trong bóng râm, nhận lấy cơ hội lập công danh, ắt có thể tuyên truyền [x] thịnh đức [y], vang danh [z] cả nước [aa].” Bùi sứ quân nghe vậy, thì khẳng khái nói: “Sao được như thế! Dẫu ở châu lớn cũng chưa gặp bậc dị tài có thể cởi bỏ nỗi phiền muộn của người ta, tôi đã nghĩ nên về kinh sư, để được luận đạo với người như vậy, thế mà chốn quê mùa [ab] lại có tài năng cao vời [ac] ư? Như vậy mà cứ chọn lấy, chẳng khiến giống Kỳ Ký trở thành ngựa quèn, ngọc nước Sở trở thành đá thường.” Lập tức truyền hịch triệu Lộ làm Văn học tòng sự. Lần gặp đầu, đàm đạo [ad] cả ngày, không biết mỏi mệt. Khi ấy trời nóng, dời ghế sang dưới cây ngoài sân, đến khi gà gáy báo sáng mới đứng dậy. Lần gặp sau, liền chuyển làm Cự Lộc tòng sự. Lần thứ ba, chuyển làm Trị trung. Lần thứ tư, chuyển làm Biệt giá.
^Quản Thần, tlđd: Thể tính [ai] khoan đại [aj], phần nhiều nhẫn nhịn, không chê người ghét mình, không khen người yêu mình, thường muốn lấy đức báo oán. Luôn nói: “Trung hiếu tín nghĩa, là căn bản của con người, không thể không đầy đặn; liêm (thanh liêm) giới (cảnh giới) tế (tỉ mỉ) trực (ngay thẳng), là trang sức của kẻ sĩ, không đủ để làm việc.”
^Quản Thần, tlđd: Ông hiếu thảo với cha mẹ, hết lòng với anh em, hòa thuận với bạn bè, đều lấy nhân hòa xử thế, trọn đời không có khiếm khuyết; kẻ sĩ tang bĩ [ak], đều chịu phục ông.
^Quản Thần, tlđd: Tự nói: “Người hiểu tôi ít, nên tôi quý vậy, há phải chặn dòng Giang, Hán, mới thấy sự rõ ràng của việc xói đá hay sao? Vui vẻ cùng Quý Chủ luận đạo, không muốn ngồi cùng thuyền với ngư phủ, là chí của tôi đấy!
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng:...Lại tự nói đời này không có mong ước, muốn được Tử Thậnnước Lỗ, Bì Táonước Trịnh, Bốc Yểnnước Tấn, Tử Vinước Tống, Cam Công nước Sở, Thạch Thân nước Ngụy[al] cùng trèo lên Linh Đài [am], xé toạc bản vẽ của thần, suy tính 3 nguồn sáng [an], sáng tỏ điềm tai dị, vận dụng cỏ thi và mai rùa, tháo gỡ sự ngờ vực, không có cách nào để phục hận vậy.
^Quản Thần, tlđd: Lộ được 8, 9 tuổi, rất thích ngửa mặt ngắm trời sao [ao], gặp ai cũng hỏi tên của chúng, đến đêm chẳng chịu đi ngủ. Cha mẹ thường cấm đoán, nhưng không thể ngăn được. Lộ nói: “Tôi dẫu nhỏ tuổi, nhưng thứ ưa thích chính là thiên văn. Gà nhà chim đồng, còn biết thời tiết, huống hồ người ta?” Lộ cùng trẻ con láng giềng chơi đất mềm, liền vẽ thiên văn, bày ra mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Mỗi khi Lộ nói năng bàn bạc, lời lẽ đều không tầm thường, bậc kỳ lão túc học cũng không thể bắt bẻ, đều cho rằng ông có tài ‘đại dị’ [ap].
^Quản Thần, tlđd: Cha của Lộ được làm Tức Khâu (huyện) trưởng thuộc quận Lang Da, bấy giờ ông đã 15 tuổi, bèn đến Quan xá [aq] đọc sách. Lộ mới đọc kinh Thi, Luận Ngữ rồi đến kinh Dịch, thì bắt đầu viết lách, văn chương rất hay. Khi ấy trường có hơn 400 chư sanh là người trong và ngoài quận, đều phục tài của ông. Lang Da thái thú Thiện Tử Xuân là người tao nhã lại có tài đức, nghe Lộ là tuấn kiệt ở trường, muốn gặp mặt, nên cha khiến ông đến thăm. Tử Xuân tập hợp hơn trăm tân khách, đều là kẻ sĩ giỏi ăn nói, Lộ hỏi Tử Xuân rằng: “Phủ quân là danh sĩ, lại thêm dáng vẻ tôn quý; Lộ còn nhỏ tuổi, mật chưa cứng rắn, nếu đưa mắt nhìn, sợ mất tinh thần, xin cho uống trước 3 thăng rượu ngon, rồi mới nói chuyện?” Tử Xuân rất vui, bèn rót 3 thăng rượu ngon, cho riêng mình Lộ. Sau khi uống rượu, Lộ hỏi Tử Xuân rằng: “Bây giờ người muốn đối đáp với Lộ là kẻ sĩ ngồi chung quanh phủ quân chăng?” Tử Xuân đáp: “Tôi muốn cùng anh lấy một chọi một [ar]”. Lộ nói: “Tôi mới đọc Thi, Luận, Dịch, học vấn nông cạn, chưa thể rút ra đạo của thành nhân, kể chuyện Tần, Hán, chỉ đành bàn việc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, quỷ thần nhé.” Tử Xuân nói: “Đây là thứ khó nhất ấy, mà anh cho rằng dễ à?” Vì thế Tử Xuân xướng lên bắt đầu cuộc biện luận, rồi bàn đến âm dương, lời lẽ như hoa trôi, càng nói càng xa [as], số ít nhắc đến kinh sách, phần nhiều nói về tự nhiên. Tử Xuân cùng các sĩ phu thay nhau công kích, vặn vẹo sắt bén, nhưng Lộ đối đáp từng người, nói chưa tận ý. Từ sáng đến chiều, chẳng ai thiết đến ăn uống. Tử Xuân nói với mọi người rằng: “Chàng trai trẻ này rất có tài năng, nghe anh ta nói bàn luận, giống như Du liệp phú của Tư Mã Khuyển Tử (tức Tư Mã Tương Như), sao mà lỗi lạc hùng tráng, thông minh như vậy thì có thể tỏ tường thuật số biến hóa của thiên văn địa lý, không chỉ lý luận suông đâu.” Vì thế Lộ nổi tiếng ở Từ Châu, được đặt hiệu là Thần đồng.
^Quản Thần, tlđd: Dân huyện Lợi Tào là Quách Ân, tự Nghĩa Bác, có học vấn, giỏi Chu Dịch, Xuân Thu, lại biết thiên văn. Lộ theo Nghĩa Bác đọc Dịch, sau vài mươi ngày, hiểu rõ đạo lý, vượt qua cả thầy. Từ rày Lộ bày cỏ thi buông quẻ, suy nghĩ [at] kỳ diệu, bói việc bệnh tật, chết chóc, giàu nghèo, tang ma cho học trò trong trường, chưa từng sai lệch, chẳng ai không lấy làm lạ, gọi là thần nhân. Lộ lại theo Nghĩa Bác học thuật Ngưỡng quan, suốt 30 ngày thâu đêm không ngủ, rồi nói với ông ta: “Anh chỉ xem được mồ mả mà thôi, còn đến mức đoán vận hội, bàn tai dị [au], phải nhờ vào thiên phú của ta.” Lộ học chưa đến 1 năm, Nghĩa Bác ngược lại còn phải hỏi ông những yếu nghĩa trong Dịch và thiên văn.
^Quản Thần, tlđd: Cập thành nhân, quả nhiên tỏ tường Chu Dịch, đối với đạo về thiên văn [av], phong giác [aw], chiêm, tướng, không gì không rành rẽ.
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng:... (Quản) Thần không quản (bản thân) ngu muội ít học [ax], nhờ vào thân tình anh em [ay], mấy lần hỏi han Lộ về các vấn đề bình xét (biện) nhân vật, phân tích hay dở (tích tang bĩ), chỉ trích đúng sai [az], (do Quản Thần) vụng về nên không được việc gì.
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng:...Hận Lộ tài cao mệnh ngắn, đạo sang gặp thời vận hèn, người hiền chịu xa lánh mai một, không được chép rõ trong chính sử, nên làm đứa em hèn mọn đối với những chuyện xưa đã thấy, bắt đầu từ sự mờ đục, rồi sự xa xôi về sau, đối với những chuyện bói toán đã ghi chép, dẫu không hiểu quẻ gốc, nhặt nhạnh tàn dư, mười được hai mà thôi. Còn những sự thiêng khéo của nghề xem thiên văn, nói về sự hưng – suy của Ngụy, Tấn, cho đến sự nổi – chìm của năm vận, tai nạn chiến tranh, mười không thu được một. Không nguồn làm sao thành sông? Không gốc làm sao tỏa sáng? Dẫu cúc mùa thu có thể hái, chẳng bằng hoa mùa xuân, ghi chép hăng hái [ba], giấu chịu buồn thẹn. Về sau quân tử, may mắn lấy cao minh để cầu cái nghĩa vậy.
^Quản Thần, tlđd: Nghĩa Bác bày lễ chủ khách, mời một mình Lộ, trình bày nỗi khổ, lời rằng: “Ba anh em tôi đều bị khoèo, không biết tại sao? Thử giúp tôi làm quẻ, để biết nguyên do. Nếu có vạ xấu gì, thì đạo trời tha cho người, nay anh giúp tôi cầu phúc với thần linh [bb], chẳng phải yêu mến gì tôi. Anh em tôi đều sắp chết, nhờ việc này mà sống lại.”
^Quản Thần, tlđd: Lộ bèn làm quẻ, biết việc chẳng lành. Gặp lúc trời tối, Lộ bèn nghỉ lại; đến nửa đêm, nói với Nghĩa Bác rằng: “Tôi đã bói được rồi.”
^Quản Thần, tlđd: (Lộ) nói xong, Nghĩa Bác lấy áo thấm nước mắt, rằng: “Cuối đời nhà Hán[bc], thật có việc ấy. Anh không nói với tôi, vì ngại ấy. Tôi không nói ra ngoài, vì lễ ấy...”
^Quản Thần, tlđd: “...Anh em tôi bị khoèo hơn 30 năm, chân như có gai, không thể chữa được, chỉ mong không truyền đến con cháu.” Lộ nói hành Hỏa không dứt, nhưng hành Thủy không thừa, không ảnh hưởng đến con cháu.
^Quản Thần, tlđd: Vương Cơ lập tức sai Tín Đô lệnh đào nhà, xuống sâu 8 thước, quả nhiên tìm được 2 cái quan tài, 1 quan có mâu, 1 quan có cung bằng sừng và tên, tên đã lâu ngày, gỗ cũng mục nát, nhưng sắt với sừng vẫn còn. Kíp dời hài cốt ra ngoài thành 10 dặm để chôn đi, trong nhà không còn bệnh tật.
^Quản Thần, tlđd: Ngụy quận thái thú Chung Dục, thanh nhã [bj] có tài, hỏi khó Lộ hơn 20 vấn đề trong kinh Dịch, tự cho là tinh hoa nhất trong các nan đề [bk] đấy. Lộ nhất nhất trả lời, nói không vấp váp, chia đặt hào – tượng, nghĩa đều rất diệu. Dục lập tức tạ Lộ. Lộ bói biết ngày tháng sanh của Dục, Dục ngạc nhiên nói: “Thánh nhân tập trung dạy dỗ [bl], liên kết [bm] sự vật, sao thông minh như thế [bn]!” Lộ nói: “Hai cõi u – minh [bo] cùng đổi, chết – sống một đường, miên man thái cực, cuối lại về đầu. Văn vương tổn mạng, không lấy làm lo, Trọng Ni lê gậy, không lấy làm sợ, bày đặt bói cỏ, nên xem hết ý.” Dục nói: “Sống là chuyện tốt, chết là chuyện xấu, buồn vui phân biệt, tôi không thể đầy đủ, hãy phó mặc trời, không phó mặc anh.”
^Quản Thần, tlđd: Gia Cát Nguyên tự Cảnh Xuân, cũng là người có học, thích bói toán, mấy lần cùng Lộ chơi trò Đoán vật [bu], không thể làm khó được ông. Cảnh Xuân cùng Lộ muốn phân thắng bại, nhân Lộ đưa tiễn, có nhiều khách giỏi biện luận. Mọi người phần nhiều nghe tiếng Lộ giỏi bói, thiên văn, không biết ông có tài “đại dị”, vì thế ban đầu cùng Lộ bàn luận về nguồn gốc sách vở của thánh nhân, rồi đến điềm lành khi Ngũ đế, Tam vương nhận mệnh. Lộ hiểu rõ ý đồ của Cảnh Xuân, bèn mở ra chiến trường, tỏ vẻ không vững, giấu diếm thực hư [bv], đợi người đến đánh. Nguyên thua chạy [bw], quân sư rụt cổ, nhưng Nguyên vẫn nói mình nhìn thấy tinh kỳ của địch, còn thành trì đã hư hỏng rồi. Những người muốn đánh vì vậy đánh trống thổi tù, dựng thang mây, cung nỏ bắn ra tất cả, cờ nha [bx] dựng lên như mưa. Tiếp đó Lộ lên thành giương oai, mở cửa đón địch, trên luận Ngũ đế, như sông Giang sông Hán, dưới luận tam vương, như cuống cánh lông cánh. Tài năng của Lộ như hoa mùa xuân cùng nở, kẻ địch của ông như lá mùa thu gặp gió. Người nghe mơ hồ, không hiểu hết nghĩa, người nói im tiếng, chẳng ai không phục; dẫu Bạch Khởi chôn sống lính Triệu, Hạng Vũ gây nghẽn Tuy Thủy, cũng không hơn được. Vì thế khách đều muốn trói mình xin hàng [by], chịu bó tay ở dưới trống trận. Lộ vẫn cầm thuẫn đứng sừng sững [bz], chưa chịu đồng ý.
^Quản Thần, tlđd: Đến hôm sau, lúc ly biệt,.. Cảnh Xuân nói: “Hôm nay chia xa, ngày nào gặp lại? Hãy cùng chơi Xạ phúc lần nữa!”
^Quản Thần, tlđd: Nghĩa Bác theo Lộ học đoán tiếng chim, Lộ nói: “Anh tuy hảo đạo. thiên tài đã ít, lại không giải âm luật, khủng nan làm sư đấy.” Lộ nói về sự thay đổi của 8 gió [cg], số thứ tự của ngũ âm, dùng luật – lữ để xác định Thương của các loài chim, lục giáp để xác định đầu mối của thời gian, lật đi lật lại khiến cong queo, ra vào không dứt. Nghĩa Bác yên lặng suy nghĩ, tập trung vài ngày, rốt cục không được. Nghĩa Bác nói: “Tài không ra gì, khó lòng tìm ra điềm báo ở nghề này.” Bèn thôi.
^Quản Thần, tlđd: mùi nồng rượu độc [cp], trời trong đêm tối, Khảm làm quan quách, Đoái làm tang xa,
^Quản Thần, tlđd: Cậu là Hạ đại phu hỏi Lộ: “Ngày trước gặp Hà, Đặng, đã có hung khí chưa vậy?” Lộ nói: “Cùng người có vạ tụ họp, rồi mới biết thần minh rối bời [dg]; cùng người gặp lành gần gũi, mới biết cái diệu của việc thánh hiền tìm kiếm tinh hoa. Ôi dáng đi đứng của Đặng, thời gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, đứng dậy loạng choạng, như không có chân tay, gọi là quỷ táo (鬼躁). Vẻ hỏi han của Hà, thời hồn không giữ được nhà, máu không còn tươi màu, tinh sảng [dh] khói nổi, dáng như gỗ khô, gọi là quỷ u (鬼幽). Nên quỷ táo ấy bị gió bắt, quỷ u ấy bị lửa thiêu, điềm báo tự nhiên, không thể che được.”
^Quản Thần, tlđd: Lộ vì Cơ làm quẻ, thấy ông ta vô cữu [do], nhân đó khuyên ông ta rằng: “Xưa cái vạc của Cao Tông, chẳng phải nơi chim trĩ đậu; cái sân của nhà Ân, chẳng phải chốn cây cỏ mọc. Vậy mà chim hoang đến đậu, Vũ Đinh là Cao Tông; dâu, kê mọc lên, Thái Mậu được hưng thịnh đấy. Dẫu biết 3 việc này chẳng phải điềm lành, mong phủ quân an thân dưỡng đức, chớ để ý nghĩ về quỷ thần làm vẩn đục tính lương thiện.”
^Quản Thần, tlđd: Người cùng quê của Lộ là Nãi Thái Nguyên hỏi Lộ rằng: “Anh khi trước giúp Vương phủ quân bàn việc lạ, nói thư tá già là rắn, linh hạ già là quạ. Đấy vốn là người, sao hóa làm loài vật vậy? Chỉ dựa vào hào – tượng, sao anh biết được?” Lộ đáp: “Nếu chẳng phải tính và đạo trời [dp], vì sao trái với hào – tượng mà dốc gan ruột như thế? Ôi sự thay thế của vạn vật, không có mãi một dáng vẻ, sự đổi khác của con người, không có mãi một cách thức, hoặc lớn thành bé, hoặc bé thành lớn, vốn không có hơn kém. Ôi sự thay thế của vạn vật, là đạo của mọi thứ đấy. Ấy vậy Hạ Cổn là cha của thiên tử, Triệu vương Như Ý là con của Hán Cao Tổ, mà Cổn thành gấu vàng [dq], Như Ý thành chó xám [dr], ấy đều là bậc chí tôn mà trở thành loài mõm đen [ds] đấy. Huống hồ con rắn hợp với vị trí Thìn Tị, con quạ đậu ở trung tâm mặt trời, đây là hình tượng rõ ràng trong bóng tối, tia sáng rực rỡ giữa ban ngày; còn như thư tá, linh tá đem tấm thân nhỏ mọn hóa thành rắn, quạ cũng không quá đáng đâu!”
^Quản Thần, tlđd: Kinh muốn khiến Lộ bói cỏ, nhưng tỏ ý nghi ngại, Lộ cười mà trách rằng: “Quân hầu là người hiển đạt ở châu, sao lại nói lời hẹp hòi! Xưa Tư Mã Quý Chủ có nói, người bói toán ắt phải tuân phép trời đất, mô phỏng 4 mùa, dựa vào nhân nghĩa. Phục Hy làm bát quái, Chu Văn vương lập 384 hào, nên thiên hạ được trị. Có bệnh thì chữa, sắp chết thì sống, có nạn thì tránh, có việc thì nên, gả con lấy vợ thì sanh nở tốt, há vì mấy ngàn tiền ư? Lấy đấy mà suy, là việc quan trọng vậy. Nếu là sự sáng tỏ của đạo thì thánh hiền không bỏ qua, huống hồ tôi là tiểu nhân, dám tránh né ư!?” Ngạn Vĩ (tên tự của Kinh) chắp tay xin lỗi: “Lời trước là đùa mà thôi.” Vì thế Lộ làm quẻ, lời ông đều nghiệm.
^Quản Thần, tlđd: Bột Hải Lưu Trường Nhân có biện tài, trước đã nghe Lộ có thể hiểu tiếng chim, sau khi gặp thì căn vặn ông rằng: “Con người lên tiếng gọi là nói, chim thú lên tiếng gọi là kêu, nên biết nói là sanh linh cao quý có trí tuệ, biết kêu là sanh vật thấp hèn không trí tuệ, sao lại cho rằng tiếng kêu của chim là lời nói, làm rối loạn sự khác biệt do thần minh bày đặt như vậy? Khổng tử nói: ‘Tôi không cùng bầy với chim thú’, tỏ rõ sự mèn mọn của chúng vậy.” Lộ đáp rằng: “Trời dẫu có đại tượng [dt] nhưng không thể nói, nên vần các sao ở trên, giạt thần minh ở dưới, xem xét gió mây để nắm bắt khác lạ [du], điều khiển chim thú để giao tiếp quỷ thần [dv]. Nắm bắt khác lạ ắt dò biết lúc nổi lúc chìm, giao tiếp quỷ thần ắt cảm ứng tiếng cung tiếng thương, cho nên Tống Tương (công) thất bại, 6 con chim nghịch (鶂) đều bay lui [dw]; Bá cơ sắp chết cháy [dx], chim báo trước tai vạ; 4 nước chưa nổi lửa [dy], gió Dung đã dậy [dz], chim đỏ bay cạnh mặt trời, tai vạ xảy ra ở Kinh Sở [ea]. Đây là trời cao sai khiến, bùa sáng [eb] của tự nhiên. Xét luật lữ để biết gốc gác của âm thanh, đối với những việc mong muốn sẽ không lầm lành gở. Xưa, Tần Tổ nhờ công mà được phong, (Giới) Cát Lô nghe tiếng [ec], chép ở kinh Xuân Thu, đều là chuyện có thật trong điển mô [ed], chẳng phải lời hão của thánh hiền đâu. Nhà Thương nổi lên, nhờ cái trứng chim én đấy [ee]; (Chu) Văn vương nhận mệnh, chim đỏ ngậm sách [ef]. Đây là điềm lành của thánh nhân, vận tốt của nhà Chu, sao có thể xem là hèn mọn được? Ôi nghe tiếng chim kêu, tinh hoa ở Thuần Hỏa [eg], kỳ diệu ở 8 thần [eh], tự trái lẽ thường, giống như Tử Lộ đối với việc chết sống [ei] vậy.” Trường Nhân nói: “Anh nói dẫu nhiều, hay mà không thật, chưa thể tin được.” Ít lâu sau Lộ đoán đúng tiếng kêu của chim thước, Trường Nhân mới khâm phục.
^Quản Thần, tlđd: Lộ lại rằng: “Ôi gió tùy lúc mà động, hào theo tượng mà ứng, lúc ấy chịu sự sai khiến của thần linh, tượng ấy là cái dáng vẻ trong lúc ấy; đạo lý của một lúc, chẳng đáng xem là nạn.” Trực từng theo Đại học [ej], biết Đạo thuật, nhưng đều không rành rẽ. Đến này cùng Lộ chứng kiến luồng gió xoáy trong sân, Trực hỏi: “Sự thay đổi của gió, là thế này chăng?” Lộ đáp: “Đây chỉ là lông tóc của gió, sao đáng xem là lạ? Nếu các sao không sáng, chư thần đi loạn, 8 gió bùng phát, hơi giận bay vọt, núi lở đá bay, cây cối ngã rạp, tung bụi muôn dặm, ngẩng không thấy trời, chim thú trốn tránh, muôn dân sợ hãi, vì thế phải sai bọn Tử Thận [ek] lên đài cao, xem tình hình, xét tai nạn, đoán thời điểm, thế mới biết là suy nghĩ của thần sâu xa, con gió của linh đáng sợ!”
^Quản Thần, tlđd: Đến hôm sau, vào lúc chia tay, mọi người mới dốc gan ruột ra nói cho cạn lời. Bấy giờ bậc tuấn kiệt trong nước có 8, 9 người ở đấy, Thái Nguyên Tài có phẩm hạnh nhất trong đám bạn bè, đứng giữa mọi người mà nói rằng: “Vốn nghe nói anh làm chó, sao ra vẻ là rồng vậy?” Lộ nói: “Tiềm dương [el] chưa đổi, chẳng phải điều mà anh biết được, có chăng là chó mới nghe được tiếng rồng ru!”
^Quản Thần, tlđd: Lộ chiêm đã đều trúng. Cảnh Xuân cả cười: “Anh giúp tôi giải thích quẻ này, cởi khúc mắc trong lòng tôi.” Lộ làm mở hào giãn lý, tách phú so tượng, nói đâu đúng đấy, diệu không thể tả. Cảnh Xuân với khách khứa chẳng ai sau khi nghe xong không khen ngợi, còn vui hơn cả chơi Xạ phúc. Cảnh Xuân cùng Lộ từ biệt, răn ông 2 việc: “Tính anh thích rượu, uống cũng được đấy [em], nhưng không thể giữ mãi như thế, phải giảm bớt đi. Anh có tài biết tuốt [en], giải thích đã hay, thiên văn càng giỏi, nhưng vạ như dầu gặp lửa, không thể không cẩn thận. Dựa vào tài sáng suốt của anh, có thể dạo chơi khắp dải Ngân Hà [eo], chẳng lo không được phú quý đâu.”
^Quản Thần, tlđd: Lộ từ biệt Bùi sứ quân, sứ quân nói: “Hai thượng thư Đinh (Mật), Đặng (Dương) có tài năng giúp nước [ep], đối với lý luận sự vật [eq] thì không rành đâu. Hà thượng thư thông minh [er] tinh tế [es], nói gì cũng hay khéo, hay khéo đến mức chẻ được cả sợi lông, anh nên cẩn thận! (Hà Yến) tự nói không lý giải được 9 việc trong kinh Dịch, ắt sẽ đem ra hỏi. Nếu đến Lạc, thì nên rành rẽ những lý luận ấy!” Lộ nói: “Hà bằng hay khéo, lấy tài chất vấn [et] để dạo chơi bên ngoài, chưa đến mức nhập thần. Ôi nhập thần [eu] ấy, phải suy thiên nguyên [ev], tính âm dương, dò huyền hư, vẹn u minh, rồi mới nhận ra đạo là vô cùng, chẳng phải nhàn rỗi nói chơi. Nếu muốn phân cấp [ew] Lão, Trang mà xen vào hào, tượng, yêu nói tránh [ex] mà khuấy rong trôi, có thể nói là kỹ xảo bắn tên [ey], chẳng phải sự khéo léo chẻ được sợi lông đâu. Nếu 9 việc đều rất ý nghĩa, không đủ để nhọc nhằn nghĩ ngợi. Nếu là âm dương, thì rành rẽ đã lâu. Sau khi Lộ đi, đầu năm sẽ có lúc gặp gió lớn, gió ắt bẻ gãy cây cối. Nếu phát ở hướng Càn, ắt có oai trời, không đủ để chuyện suông [ez].”
^Quản Thần, tlđd: Lộ được Hà Yến mời, quả nhiên cùng luận 9 việc của Dịch, 9 việc đều rõ. Yến nói: “Anh luận âm dương, đời này vô song.” Bấy giờ Đặng Dương ngồi cùng với Yến, đánh tiếng: “Anh đã nói là giỏi Dịch, mà không nhắc đến câu nào trong Dịch, sao vậy?” Lộ ứng tiếng [fa] đáp rằng: “Ôi giỏi Dịch thì không bàn Dịch.” Yến cười nụ mà khen rằng: “Có thể nói là lời trọng yếu không rườm rà [fb] vậy.”
^Quản Thần, tlđd: Nhân đó mời Lộ làm quẻ. Lộ viện dẫn chuyện xưa để khuyên răn [fc].
^Quản Thần, tlđd: Yến tạ rằng: “Biết một chút sự thần kỳ ấy, người xưa cho là khó; mới quen [fd] mà thổ lộ chân thành, người nay cho là khó. Nay anh một lúc làm được 2 việc khó, có thể nói là ‘đức hạnh mới thơm’ [fe]. Thi chẳng nói sao: ‘Cất mãi trong lòng, ngày nào quên được!’ [ff]”
^Quản Thần, tlđd: Lộ sau đó nhân được nghỉ, Bùi sứ quân hỏi: “Hà Bình Thúc một đời tài danh, kỳ thật thế nào?” Lộ nói: “Tài của ông ấy như nước trong bồn chậu, thấy được thì trong, còn không thấy thì đục. Thần ở sự hiểu biết rộng, chí không chuyên học tập, chẳng thể thành tài. Muốn lấy nước trong bồn chậu, cầu hình của tòa núi, hình không thể được, thời trí do vậy mê hoặc. Nên nói về Lão, Trang thời khéo mà nhiều văn vẻ, nói về sanh nghĩa của Dịch thời đẹp mà nhiều dối trá; văn vẻ thời đạo hão, dối trá thời thần rỗng; được thượng tài thời nông mà dòng đứt, được trung tài thời tản mạn [fg] mà độc xuất [fh], Lộ cho là tài ít khéo vậy.” Bùi sứ quân nói: “Tin như lai luận [fi]. Tôi mấy lần với Bình Thúc cùng nói về Lão, Trang cho đến Dịch, luôn nhận thấy lời ông ta diệu ở lý, không thể bẻ gãy. Lại thêm người đương thời vào hùa [fj], đều quy phục ông ta vậy, càng khiến không rõ [fk]. Gặp gỡ được thanh ngôn [fl], rồi mới sáng tỏ vậy!”
^Quản Thần, tlđd: Thạch Bao làm Nghiệp điển nông, cùng Lộ gặp gỡ, hỏi rằng: “Nghe nói hương lý của anh là Trạch Văn Diệu có thể ẩn hình, chuyện ấy có thể tin ru?” Lộ nói: “Đây chỉ là số của âm dương che dấu, ví được số ấy, thời bốn Nhạc [fm] có thể giấu, sông biển có thể trốn. Huống hồ thân hình 7 thước, dạo trong sự biến hóa, giãn vân vụ để náu thân, bày Kim – Thủy để diệt tích, thuật đủ số thành, không đủ là khó.” Bao nói: “Muốn nghe cái diệu ấy, anh hãy thiện luận về số của nó đi.” Lộ nói: “Ôi vật chẳng tinh không phải thần, số chẳng diệu không phải thuật, nên tinh ấy là hợp của thần, diệu ấy là ngộ của trí, hợp chưng tỉ mỉ, có thể tính thông, khó lòng ngôn luận. Thế nên Lỗ Ban không thể nói về tay mình, Li Chu không thể nói về mắt mình [fn]. Cái khó của phi ngôn, Khổng tử nói ‘thư bất tận ngôn’, tế của lời đấy, ‘ngôn bất tận ý’, vi của ý đấy, ấy đều là bình luận về thần diệu đấy. Xin lấy đại thể để nghiệm. Ôi bạch nhật lên trời, vần quanh muôn dặm, chẳng gì không rọi, đến khi vào đất, ánh sáng hòn than, không thể nhìn thấy. Mười lăm trăng tròn [fo], trong vắt soi đêm, có thể trông xa, đến lúc ban ngày, sáng không bằng gương. Nay trốn mặt trời, mặt trăng ấy ắt là số của âm dương, số của âm dương thông suốt muôn loài, chim thú còn thay đổi, huống hồ con người! Ôi được số ấy diệu, được thần ấy linh, không những người sống có chứng cứ, người chết cũng có điềm báo. Cho nên Đỗ Bá cưỡi hỏa khí để gởi tinh [fp], Bành Sinh mượn thủy biến để dựng hình [fq]. Ấy nên người sống có thể ra cũng có thể vào, người chết có thể hiện cũng có thể nấp, đây là tinh khí của vật thể, hóa làm du hồn, người và quỷ cảm ứng lẫn nhau, số khiến cho như thế đấy.” Bao nói: “Mắt thấy cái lý của âm dương, không qua được anh, anh sao không ẩn?” Lộ nói: “Ôi chim trên không trung [fr], yêu vẻ thanh cao của nơi ấy, không muốn làm cá ở Giang, Hán; cá ở ao vực, yêu sự ướt át của nơi ấy, không đổi làm chim cưỡi trên gió; do tính dị mà phận bất đồng đấy. Kẻ hèn tự muốn chánh thân [fs] để minh đạo [ft], trực kỷ để thân nghĩa, thấy số không cho là dị, thấy thuật không cho là kỳ, sớm tối nghiên kỷ [fu], chăm chăm [fv] ôn cố, còn tìm ẩn, làm lạ [fw], chưa nhàn rỗi để nghĩ đến.
^Quản Thần, tlđd: Tướng của quận quê cũ là Lưu Bân tự Lệnh Nguyên, thanh hòa [fx] có tư lý [fy], ưa Dịch mà không thể tinh thông. Cùng Lộ gặp gỡ, ý rất vui vẻ, tự nói chú Dịch sắp xong rồi. Lộ nói: “Nay minh phủ muốn ủy lạo tinh thần phi thường [fz], ngang dọc đại đạo, làm nên cái buổi giàu đẹp. Nhưng Lộ cho rằng cái kíp của chú Dịch, kíp ở Thủy – Hỏa; tai nạn Thủy – Hỏa, hiệu nghiệm tức thì [ga], trong đục của Dịch, kéo dài muôn đời, chẳng thể không trước thì ổn định tâm thần rồi sau đó cúi đầu suy nghĩ. Từ sớm đến nay, nghe và chọn lời thánh luận, chưa có một phần của Dịch, Dịch làm sao có thể chú giải! Lộ không hiểu được thánh nhân vào đời xưa, làm sao phân biệt Càn vị ở tây bắc, Khôn vị ở tây nam. Ôi càn – khôn ấy là tượng của thiên – địa, nhưng thiên – địa lớn nhất, là quân – phụ của thần minh, bụng chứa vạn vật, sanh trưởng không đầu, sao đặt yên ổn [gb] 2 vị cùng 6 quẻ ngang hàng? Tượng thoán của Càn rằng: ‘Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên.” [gc] Ôi thống (统) ấy, là thuộc (属) vậy, sao còn có ngôi khác vậy?” Bân nương các đạo lý trong Hệ từ truyện của kinh Dịch để chú giải, nhưng không nắm được yếu nghĩa. Lộ tầm thanh hạ nan, chỗ nào cũng phân tích đến cùng. Nói: “Ôi Càn – Khôn ấy, là tổ tông của Dịch, căn nguyên của biến hóa, nay minh phủ bàn trong đục ấy có ngờ, ngờ thời không có thần, sợ trái với sự phù hợp của việc chú Dịch đấy.” Lộ do vậy mà bàn về đạo của Bát quái và tinh của hào – tượng, đại luận khai khuếch [gd], mọi thứ hóa tương liên. Chỗ Bân giải được, đều cho là diệu, chỗ không giải được, đều cho là thần. Tự nói: “Muốn chú Dịch 8 năm, suy nghĩ vất vả [ge], nhiều năm [gf] bất an [gg], định phối hợp [gh] lời bàn hay [gi], tài này không theo kịp Dịch, không thích vất vả lâu ngày, vui vẻ tiếp nhận lời khuyên đúng [gj], như vậy cùng nhau kê cao gối mà nghỉ ngơi rồi.” Muốn theo Lộ học Xạ phúc, Lộ nói: “Nay minh phủ đã hư thần vào việc chú Dịch, cũng nên dứt suy nghĩ ở việc bói cỏ [gk]. Bói cỏ ấy, là minh số của trời đất [gl], u khế của âm dương, cỏ thi đối với đạo thời định cát hung của thiên hạ, sử dụng đối với thuật thời thu vụn vặt [gm] của thiên hạ. Nhỏ mọn [gn], có thể nói là Dịch vậy.”
^Quản Thần, tlđd: Bân lại nói: “Đây là quan xá của quận, liên tiếp có biến quái, biến quái có nhiều hình dạng, khiến người ta sợ hãi, anh tự nhận là hiểu được số này, lý ấy do đâu?” Lộ nói: “Quận này sở dĩ tên Bình Nguyên ấy, vốn có đồng (nguyên), núi không có gỗ đá, đều là tự nhiên của đất; ngậm Âm không thể nhả mây, ngậm Dương không thể đẩy gió, âm dương dẫu yếu, cũng có chút thần; chút thần không chân thực, tụ nhiều hung gian, theo loài tìm nhau, võng lượng thành bầy. Có lẽ nhân Hán mạt binh mã nhiễu nhương, thây lính lưu huyết, ô nhiễm gò núi, hồn mạnh cảm nhau, biến hóa vô thường, nên nhân lúc chiều tối, có nhiều quái hình vậy. Xưa Hạ Vũ văn minh, không quái ở rồng vàng, Chu Vũ tin thời, không hoặc bạo phong, nay minh phủ đạo đức cao diệu, thần không sợ yêu, tự được trời giúp, lành, chẳng gì không lợi, xin giữ trăm lộc để sáng hưu sủng vậy.”
^Quản Thần, tlđd: Bân nói: “Nghe nhã luận để tiếp cận đạo lý, mỗi khi có biến quái, liền nghe thanh âm của sừng – trống, hoặc nhìn hình tượng của cung – kiếm. Ôi tinh của núi đất, là hồn oan tác quái [gt], thật có thể hợp hội, xúc phạm thần linh [gu] vậy.” Bân hỏi Lộ: “Dịch nói ‘cương kiện đốc thật, huy quang nhật tân’ [gv], ấy là giống nhau hay không?” Lộ nói: “Tên không giống nhau, sớm mai là huy, giữa trưa là quang.”
^Quản Thần, tlđd: Thanh Hà lệnh Từ Quý Long, tự Khai Minh, có học vấn và cơ trí. Cùng Lộ gặp gỡ, bàn về “rồng động thời mây lành dậy, cọp gầm thời gió đông đến” [gw], cho rằng sao Hỏa ấy rồng, sao Sâm ấy cọp, Hỏa hiện thời mây ứng, Sâm hiện thời gió đến, đây là cảm hóa của âm dương, không phải sự sắp đặt của rồng, cọp vậy. Lộ nói: “Ôi luận nan nên trước thẩm cái gốc, rồi sau cầu cái lý, lý mất thì then lệch, then lệch thời chủ của vinh nhục. Nếu sao Sâm làm cọp, thời gió Cốc là gió của hàn sương, gió của hàn sương không có tên gió đông. Vậy nên lấy rồng ấy sao Dương, lấy ngầm làm Âm, u hồn thông lên trên [gx], hòa khí cảm thần [gy], hai vật tương phù, nên có thể nổi mây. Ôi cọp ấy, sao Âm mà ở chỗ Dương, tựa cây gầm dài, hoạt động ở rừng phương Tốn (đông nam), hai khí tương cảm, nên có thể vần gió. Bằng nam châm chưng lấy được sắt, không thấy sự thần kỳ của nó mà là loài kim tự đến, có chứng cứ [gz] đã tương cảm vậy. Huống hồ rồng có sự chuyển đổi lặn và bay, cọp có sự thay đổi văn minh, vời mây gọi gió, sao đủ để nghi?” Quý Long nói: “Ôi rồng ở vực sâu, chẳng qua đáy của cái giếng, hổ gầm thê thiết, chẳng qua ở trong trăm bước, hình khí yếu ớt, chỗ thông suốt ấy gần gũi, sao có thể nổi mây lành mà ruổi gió đông?” Lộ nói: “Anh không thấy mồi âm dương nắm trong lòng bàn tay, hình dáng không ra khỏi bàn tay, bèn trên dẫn lửa của Thái Dương, dưới dẫn nước của Thái Âm, trong lúc hít vào thở ra, hơi nước mênh mang [ha]. Ví như tinh khí [hb] tương cảm, thiên tượng [hc] ứng với 2 mồi; ví như không tương cảm, thời 2 phụ nữ đồng cư, chí không tương đắc. Đạo của tự nhiên, không có xa gần.” Quý Long nói: “Đời có quân sự, thời cảm ứng gà, trĩ gáy trước [hd], đạo ấy do đâu? Lại có kẻ bói toán, chỉ nhờ gà, trĩ bèn vào giờ Tỵ?” Lộ nói: “Quý nhân có việc, gây cảm ứng ở trời, ở trời thời mặt trời, mặt trăng và các vì sao vậy. Binh động dân lo, gây cảm ứng ở vật, ở vật thời chim thú của núi rừng vậy. Ôi gà ấy muông của quẻ Đoái, hành Kim ấy tinh hoa của nhà binh, trĩ ấy loài chim của quẻ Ly, loài thú ấy thần linh của võ lực, nên Thái Bạch tỏa sáng thời gà gáy [he], Huỳnh Hoặc lưu hành thời trĩ sợ [hf], đều cảm ứng số mà động. Còn phép thuật [hg] của nhà binh, bày ở lục giáp, lục giáp đổi dời, bói toán không chừng. Cứ lấy quan tài vua Tấn có tiếng bò rống [hh]; trống đá thời Hồng Gia kêu ắt có việc chiến tranh [hi], không chỉ dựa vào gà, trĩ vậy.” Quý Long nói: “Lỗ Chiêu công năm thứ 8, có đá nói chuyện ở nước Tấn, Sư Khoáng cho rằng làm việc bất thì [hj], oán độc [hk] động vào dân, thời có vật không nói được mà nói được, về lý có hợp hay không?” Lộ nói: “Tấn Bình xa thái [hl], chuộng sửa cung thất, chặt đẵn cây rừng, tàn phá vàng đá, sức dân đã hết, oán đến núi chằm, thần đau người cảm, 2 tinh đều làm, vàng đá hòa hơi, thời quẻ Đoái làm miệng lưỡi, con yêu của miệng lưỡi, động vào đá thiêng. Truyền rằng khinh bách tính, sửa thành quách, thời loài Kim không tòng cách [hm], là như thế này đấy.” Quý Long khâm gia [hn], giữ Lộ ở lại vài ngày. Lộ đoán việc săn đã nghiệm, Quý Long nói: “Anh dẫu thần diệu, nhưng không giấu nhiều vật đấy, sao có thể đều biết được?” Lộ nói: “Tôi cùng thiên địa tham thần, cỏ thi và mai rùa thông linh, ôm mặt trời, mặt trăng mà dạo yểu minh [ho], cực biến hóa mà ngắm vị nhiên [hp], huống vật ấy ở gần, có thể che thông minh [hq]?” Quý Long đại tiếu, “Anh đã không khiêm tốn, còn nhớ lần bị làm khó gần đây chứ?” Lộ nói: “Anh còn chưa thức khiêm ngôn, sao có thể luận đạo? Ôi thiên địa ấy thời quẻ của Càn – Khôn, cỏ thi và mai rùa ấy thời số của bặc thệ, mặt trời, mặt trăng ấy thời tượng của Ly – Khảm, biến hóa ấy thời hào của âm dương, yểu minh ấy thời nguồn của thần hóa [hr], vị nhiên ấy thời tiên của u minh, đây đều là kỷ cương của Chu Dịch, sao kẻ hèn không khiêm tốn?”
^Quản Thần, tlđd: Lộ cùng Nghê Thanh Hà gặp gỡ, đã hẹn chắc chắn giờ mưa, Nghê còn chưa tin. Lộ nói: “Ôi tạo hóa nhờ vào đâu làm thần, là nhờ không vội mà nhanh, không đi mà đến. Ngày 16 Nhâm Tý, Trực mãn [hs], trong sao Tất đã có thủy khí, thủy khí phát ra, [ht] động vào Mão – Thìn, thế này ắt ứng nghiệm. Lại trời sắp hịch triệu năm sao, tuyên bố tinh phù, thứ hạ Đông Tỉnh [hu], cáo mệnh [hv] Nam Cơ [hw], sai triệu Lôi công, Điện mẫu, Phong bá, Vũ sư, quần Nhạc thổ âm, chúng xuyên kích tinh, Vân Hán rủ trạch, giao long hàm linh [hx], chằng chịt điện đỏ, nuốt nhả yểu minh, ù ù tiếng sấm, hít thở vũ linh, tập tập cốc phong[hy], lục hợp đều đồng, trong thời gian ho khạc [hz], phẩm vật lưu hình [ia]. Trời có thường kỳ [ib], đạo có tự nhiên, không đủ làm khó vậy.” Nghê nói: “Bàn cao siêu nhưng ít đáng tin, lấy làm băn khoăn đấy.” Vì thế Nghê lưu Lộ, đi mời phủ thừa cùng Thanh Hà huyện lệnh. Nếu đêm nay trời mưa thì đương vi [ic] ăn 200 cân thịt nghé, nếu không mưa thì sẽ trụ 10 ngày. Lộ nói: “Nghĩ về phí tổn đi [id].” Đến lúc trời về chiều, vẫn không có vân khí, mọi người đều cười Lộ. Lộ nói: “Trên cây có gió Thiếu Nữ thổi nhẹ [ie], giữa cây có chim Âm hòa giọng [if]. Lại thêm gió Thiếu Nam [ig] nổi, nhiều chim cùng liệng, sẽ ứng nghiệm thôi.” Chốc lát, quả có gió Cấn [ih], chim hót. Mặt trời chưa lặn, đông nam có sơn vân như lâu khởi. Sau khi hoàng hôn, tiếng sấm vang trời. Đến giữa canh một, trăng sao đều mất, gió mây đều thịnh, huyền khí [ii] tứ hợp, mưa lớn như sông rót. Nghê cười Lộ mà nói: “Lầm trúng đấy, chẳng phải là thần vậy.” Lộ nói: “Lầm trúng với thiên kỳ, chẳng khéo ru!”
^Quản Thần, tlđd: Đệ Thần từng muốn theo Lộ học việc bặc cùng ngưỡng quan, Lộ nói: “Anh, không thể dạy được vậy. Ôi bặc chẳng phải chí tinh thì không thể biết số của nó, chẳng phải chí diệu thì không thể thấy đạo của nó; Hiếu kinh, Thi, Luận (ngữ), đủ làm tam công, không cần dụng tri [ij] như thế.” Vì vậy bèn thôi. Con em không có tài năng để được truyền thuật của ông.
^Quản Thần, tlđd: Nghĩa Bác mỗi khi nghe Lộ nói, chưa từng không tỏ ra khảng khái. Tự rằng: “Vào lúc nghe được chí luận của anh, quên đi bệnh tật của mình, sáng tối đuổi theo mà không kịp, sao lại xa thế!”
^Quản Thần, tlđd: Bảo Tử Xuân làm Liệt Nhân lệnh, có minh tư tài lý, cùng Lộ tương kiến, nói: “Nghe anh bói được ngày mất của vợ Lưu Phụng Lâm, sao mà hay khéo, hãy thử bàn ý nghĩa của nó xem.” Lộ bàn về ý của hào tượng, nói đến nghĩa của biến hóa, như khuôn có tròn vuông, chẳng gì không phù hợp. Tử Xuân nói: “Tôi từ nhỏ thích bàn về Dịch, cũng thích bày cỏ thi, có thể nói là người mù muốn thấy trắng đen, người điếc muốn nghe trong đục, khổ sở vô ích vậy. Sau khi nghe anh nói, tự nhìn bản thân, thật là kẻ ngờ nghệch.”
^Quản Thần, tlđd: Cơ và Lộ cùng luận Dịch, trong vài ngày, rất lấy làm vui vẻ, nói với Lộ rằng: “Đã nghe tiếng giỏi bói, định cùng thanh luận. Anh là nhất thời dị tài, đáng được ghi vào tre lụa đấy.”
^Quản Thần, tlđd: Cơ nói: “Tôi từ nhỏ thích học Dịch, nghiền ngẫm đã lâu, không ngờ thuật số của thần minh lại kỳ diệu như vậy.” Rồi theo Lộ học Dịch, suy luận thiên văn. Lộ mỗi lần chỉ ra tượng của sự thay đổi, giải thích điềm lành dữ, chưa từng không tỉ mỉ giải thích, nói hết ý nghĩa. Cơ nói: “Mới nghe anh nói, cứ ngỡ có thể nắm được, cuối cùng đều là rối rắm. Đây là bởi của trời, không phải sức người.” Vì thế Cơ cất sách Chu Dịch, dứt nghĩ ngợi, không tiếp tục học bặc thệ nữa.
^Quản Thần, tlđd: Kinh mỗi bàn về Lộ, cho rằng ông nắm được tinh của long vân [ik], có thể dưỡng hòa thông u [il], không chỉ có tài hợp hội vậy.
^Quản Thần, tlđd: Bân nói: “Làm ra thuật ấy là thứ của Dịch tựa như số, muốn cầu đầu mối ấy vậy. Cứ như lai luận, nên làm thế nào?” Giữ Lộ 5 ngày, không lo việc công, chỉ cùng thanh đàm. Bân tự nói: “Mấy lần cùng Hà Bình Thúc bàn Dịch cùng đạo của Lão, Trang, đến mức tinh thần trôi xa, đều hóa chu toàn [im], thanh như Kim – Thủy, uất như núi rừng, trái với khi làm bạn với anh.”
^Quản Thần, tlđd: Quý Long vì thế lấy 13 món đồ, muốn làm khó ông, Lộ xạ đều trúng. Quý Long bèn than rằng: “Tác (tức tác quái/làm quẻ) ấy gọi thánh, thuật (tức thuật số) ấy gọi minh, há như thế này ru!”
^Quản Thần, tlđd: Đã có sự thông minh và tài hoa, gặp vận như mặt trời đứng bóng, bấy giờ tiếng tăm và quyền thế hiển hách, như lửa dữ gió giật. Quan lại đang nắm quyền, chẳng ai không muốn kết giao [in]. Khách khứa như mây, không kể nhiều ít đều thết đãi ăn uống. Khách không kể sang hèn, hậu đãi theo lễ. Kinh thành lắm người, chẳng những quy phụ tiếng tăm và quyền thế của ông, mà cũng yêu đức hạnh của ông đấy. Khi xưa không yểu mạng, vinh hoa của Lộ, chẳng phải người đời có thể lường được.
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng:...Bùi Ký Châu, Hà, Đặng 2 thượng thư cùng người đồng hương là anh em Lưu thái thường, Lưu Dĩnh Xuyên, cho rằng Lộ được trời phú tài năng, biết rõ đạo lý của âm dương, thực chất của lành gở, đã nắm được nguồn cơn, bèn lội qua dòng chảy, cũng không có gì khó, luôn khâm phục ông ấy. Lộ tự nói cùng năm người này nói chuyện khiến tinh thần người ta đổi mới, đêm không buồn ngủ, từ đây về sau, đợi ban ngày mới muốn đi nằm vậy.
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng:...Nếu bày kinh điển của Hoàng (Đế), Phục (Hy), mở văn của (Chu) Văn (vương), Khổng (tử), đi khắp ngũ hành [io] ngang dọc tam tài [ip], miệng đầy tiếng tràn, lời hay trào ra [iq], nếu ngước ngắm chim hồng bay, lượn lờ hề sự to lớn mất đi, nếu cúi nhìn chỗ khe sâu, thăm thẳm hề cái tinh hoa dứt đi; bức bách để chất vấn, nên đánh mất đầu mối, muốn học tập nhằm cầu đạo, vẫn cho rằng (bản thân) hồ đồ, chẳng ai không chống cằm gõ bàn, vọng lại tiếng than dài đấy. Xưa Kinh Phòng dẫu giỏi bói cỏ cùng đoán tiếng gió, rốt cục không tránh được vạ, [ir] nên Lộ tự biết 48 tuổi phải mất, có thể nói là sáng suốt khác nhau. Còn Kinh Phòng mắt thấy lũ gièm pha [is], tai nghe tiếng loài nhặng, can thẳng thì không theo, mà còn bối rối về phương hướng. Lộ ở vào lúc giao thời Ngụy, Tấn, giấu trí khôn trong vẻ chất phác, gấp sách thi thoảng, khéo không được mong đợi, dốt không bị bỏ rơi, có thể nói là hiểu mình hơn hẳn. Kinh Phòng trên không lường được nhà vua [it], dưới không tránh được bọn nịnh [iu], muốn lấy thiên văn, Hồng phạm [iv] để làm lợi nước lợi mình, khống thay không thể được, rốt cục chịu tội chết, có thể nói là trí khôn vặt của mai rùa khô, ánh sáng tàn của ngọn đuốc mỡ, há chẳng thương thay! Người đời đem Lộ sánh với Kinh Phòng, Thần không dám đồng ý. Cứ như ngửa xét trời sao, cúi liệu lành gở, xa thì không lỡ mùa màng, gần thì không lỡ giờ giấc, Thần cho rằng Cam, Thạch chẳng hơn vậy. Xạ phúc đoán vật, bày thuật nhanh chóng, Đông Phương Sóc chẳng qua vậy. Xem dáng xương mà xét sang hèn, ngắm vẻ mặt mà biết sống chết. Hứa Phụ, Đường Cử chẳng vượt vậy. Cứ như giải nghĩa luồng gió để dò xét điềm báo, lắng nghe tiếng chim để hiểu biết thời vận, cũng là sự hiếm có ở đời vậy. Giả sử Lộ thành đạt, làm tể tướng đại thần, màu mỡ gởi lại đời sau, rực rỡ ghi trên tre lụa, những điều chứng nghiệm từ chốn sâu xa đều được ghi chép, những lời bí truyền không bị bỏ sót, ngàn năm về sau, người có đạo ắt tin mà quý trọng, kẻ không có đạo ắt ngờ mà lạ lùng; người tin cho rằng khéo quá thật, ôi khéo cùng thần hợp ấy, được thần không còn chỗ nào để nghi hoặc vậy.
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng:...Trước đây Mạnh Kinh Châu làm Liệt Nhân điển nông, từng hỏi anh trai đã mất, xưa Đông Phương Sóc xạ phúc được quẻ gì, mà biết 2 con vật thằn lằn, tắc kè đấy. Anh trai đã mất vì vậy làm phép An quái để sanh tượng, lời lẽ xoắn xuýt, nghĩa hay hào dậy, thay đổi suy ra nhau, gặp ở Thìn Tị, phân biệt rồng – rắn, đều thấy có lý. Sau khi dứt lời, Mạnh Kinh Châu than thở dài rằng: “Tôi nghe anh bàn, tinh thần nhảy dựng, sợ muốn bay mất, sao mà sâu xa đến như vậy!”
^Quản Thần, tlđd: Thần trình bày rằng: “Ôi kẻ sĩ thời Tấn, Ngụy, biết đạo thuật của Lô thần diệu, xem bói không lầm, cho rằng có sách kín (ẩn thư) cùng thuật số của tượng truyện và độn giáp. Thần thường xem sách vở của Lộ, chỉ có Dịch lâm (易林), sách về gió hú, cùng chim hót, ngửa xem sao hơn 30 quyển, người đời cũng có. Nhưng Lộ một mình ở nha môn của Thiếu phủ, không có người nhà, con em bên cạnh; vào lúc ông ấy mất đi, người ta chẳng những không thương xót, mà còn trộm sách của Lộ, chỉ còn giữ được Dịch lâm, sách về gió hú, cùng chim hót đấy. Ôi thuật số có trăm mấy mươi nhà, sách của họ có vài ngàn quyển, sách không ít vậy. Nhưng mà người ít tiếng tăm trên đời, đều bởi không có tài, chẳng bởi không có sách vậy.
Bùi Tùng Chi khảo xét:
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét: Gần hơn có Diêm Tục Bá ấy, tên Toản, đáng xem là thông thái, có phong độ của sử quan. (Toản muốn) vì thiên hạ bồi đắp những chỗ rơi sót, dám đem những việc nghe nói xếp vào nhóm thiên lệch. (Toản) đều nghe theo những điều được dạy bởi các bậc tiên hiền đại nhân, (cho rằng như thế) mới đáng để tin cậy đấy, muốn dẹp bỏ những vấn đề sằng hão như thế mà thôi (phiếm chỉ Huyền học). (Toản) từng nhận truyện của Thần nói Lưu thái thường kể rằng... Lưu hầu kể rất nhiều chuyện giống như vậy, Thần chép mười được một, hai vậy.
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Tiền Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được từ Thành môn hiệu úy Hoa Trường Tuấn mà kể rằng: “Xưa vào lúc cha (của Tuấn) làm Thanh Hà thái thú, triệu Lộ làm lại, Tuấn cùng (Lộ) trẻ tuổi, lại là đồng hương, càng thêm ân tình, thường ngồi chung xe đi lại, biết hết việc của ông ấy. Kể những sự hiệu nghiệm, gấp ba lần truyện. Thần đã kém tài, lại thêm tuổi nhỏ, còn phần nhiều ở quê nhà, nên càng không rõ.
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Tiền Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được từ Thành môn hiệu úy Hoa Trường Tuấn mà kể rằng:... Lại kể: “Vào lúc theo cha Lộ ở (huyện) Lợi Tào, có dân thuộc đồn điền dưới quyền bắt được hươu, buổi sáng đi rồi trở về, thấy lông và máu, người ta dây từ chỗ con hươu kéo đến chuồng ngựa, báo với Lộ, Lộ làm quẻ nói rằng: ‘Đây có trộm đấy, là nhà thứ ba trong hẻm phía đông của nhà mày. Mày đi thẳng đến trước cửa, chọn lúc không có người, lấy một viên ngói, lén nhấc cái đòn thứ 7 ở đầu phía đông trong buồng xay gạo của họ, đặt viên ngói xuống, không quá giờ cơm của ngày mai, tự đem trả mày.’ Đêm ấy, vợ tên trộm phát bệnh đau đầu, bị chứng tráng nhiệt đau nhức, rồi cũng đến gặp Lộ để bói. Lộ bảo bị ma ám, tên trộm đều phục. Lộ lệnh gánh da, thịt trả lại chỗ cũ, bệnh sẽ tự khỏi. Bèn mật khiến chủ con hươu đi lấy, lại sai quay lại chỗ trước, nhấc cái đòn lên để bỏ viên ngói đi, thì vợ tên trộm khỏi bệnh...”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...(Diêm Toản) từng nhận truyện của Thần nói Lưu thái thường kể rằng: “Lộ mới ra làm quan [bi], bởi vì giúp người đàn bà láng giềng bói việc mất bò, nói đang ở giữa bức tường cuối đường mặt tây, ngẩng đầu nhìn lên. Khiến người đàn bà nhìn vào trong các phần mộ, quả nhiên tìm được bò. Người đàn bà nhân đó cho rằng có kẻ giấu bò của mình, báo quan tra xét, mới biết là nhờ thuật mà tìm được, nên Bùi Ký Châu nghe thấy vậy.”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:... Tiền Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được từ Thành môn hiệu úy Hoa Trường Tuấn mà kể rằng:...Phu nhân của Hoa thành môn là con gái của Trác quận Lư công nhà Ngụy đấy, đấy, mắc bệnh, nhiều năm không đỡ. Nhà họ Hoa khi ấy sống ở làng Nam Triền dưới tường thành mặt tây, có 3 chuồng ngựa ở mặt đông nam. Lộ bói được sắp có quân đội từ phương đông đến, nói rằng (bọn họ) có thể trị (bệnh), hãy đợi mà sai khiến họ, ắt được họ ra sức. Sau đó không lâu, có viên coi ngựa (sô) trong quân đội nam chinh, sắp sung làm binh sĩ, đến chỗ Lư công, (Lộ) đoán (người ấy) có thể trị cho cô gái. Công lập tức dâng biểu xin giữ lại, chuyên khiến con trai đem đến họ Hoa chữa bệnh, ban đầu dùng thuốc bột, sau lại dùng thuốc viên mà trị, rồi có hiệu quả, lập tức tấu trừ bỏ thân phận coi ngựa (sô danh), để bổ làm Thái y.”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...(Diêm Toản) từng nhận truyện của Thần nói Lưu thái thường kể rằng:...Lại nói: “Trên đường có chàng trai trẻ lạc mất vợ, Lộ giúp bói, khiến anh ta vào sáng hôm sau, ở trong cửa thành Đông Dương [br], tìm người vác con heo sữa, níu lại đánh nhau với người ấy. Làm như lời ông, con heo sữa xổng chạy, lập tức cùng đuổi theo. Con heo sữa chạy vào nhà người ta, xô vỡ cái vò của chủ nhà, người đàn bà từ trong vò bước ra.”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Tiền Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được từ Thành môn hiệu úy Hoa Trường Tuấn mà kể rằng:... Lại kể: “...Lại có Đô úy trị nội sử [bs] mất đồ vật, Lộ sai sáng hôm sau ra ngoài cửa Tự mà nhìn, sẽ gặp một người, khiến (người ấy) chỉ trời vạch đất, giơ tay bốn hướng, tự sẽ tìm được. Đến chiều quả nhiên tìm được ở chỗ cũ.”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Trung thư lệnh sử Kỷ Huyền Long là người đồng hương của Lộ, kể “Lộ ở chốn quê nhà, từng thăm viếng láng giềng xa, chủ nhà lo buồn vì mấy lần bị cháy. Lộ bói, khiến ngày hôm sau ở trên đường nam dò tìm, sẽ có một học trò đội vuông khăn, cưỡi cỗ xe trâu cũ, ắt giữ lại, bày lễ chủ khách, vạ này có thể mất. Lập tức theo Lộ ngăn đường, học trò có việc gấp xin đi, (chủ nhà) không nghe, bèn giữ lại đêm ấy, ý rất không yên, cho rằng mưu tính mình. Chủ nhà vào nghỉ, học trò bèn cầm đao ra cửa, nhân chỗ ấy có hai đống củi, đứng cạnh mà khép hờ mắt. Chợt có con vật nhỏ xông đến trước mặt, giống thú, trên tay cầm lửa, lấy mồm thổi lên. Học trò sợ, giơ đao chặt xuống, cắt đúng chỗ yếu hại, nhìn ra con cáo. Từ ấy chủ nhà không còn gặp tai vạ.”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Tiền Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được từ Thành môn hiệu úy Hoa Trường Tuấn mà kể rằng:...Tuấn lại kể: “Lộ bói cũng bất tất trúng, mười được bảy, tám; Tuấn hỏi cớ, Lộ nói: ‘Lý thì không sai nhầm, người đến bói ngờ rằng nói không đủ để hết sự thật, nên mới như vậy!’...
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét: Thần nhắc đến đồng hương Lưu thái thường ấy, nói Lưu Thực vậy. Thần soạn truyện về Lộ, Thực khi ấy làm Thái thường, Dĩnh Xuyên thời em Thực là Trí vậy. Thực, Trí đều nhờ Nho học mà nổi tiếng, không thể nói chuyện ấy. Thế ngữ (tức Thế thuyết tân ngữ) kể Thực giỏi biện bác, vẫn không đủ cho rằng cùng dòng với Bùi, Hà vậy.
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Lại xét Lộ tự nói, rằng “bản mệnh ở Dần”, thời sanh năm Kiến An thứ 15 vậy [iw]. Đến năm Chánh Thủy thứ 9, ứng với 39 tuổi, mà truyện chép 36 tuổi, lấy năm Chánh Nguyên thứ 3 mất, ứng với 47 tuổi, truyện chép 48 tuổi, đều là không tương ứng vậy.
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét: (Diêm Toản) từng nhận truyện của Thần nói Lưu thái thường kể rằng... Lưu hầu nói: “Thần, có tài Hiếu liêm vậy.”
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Bề tôi Tùng Chi khảo xét:...Trần Thừa nghe được từ Thành môn hiệu úy Hoa Trường Tuấn mà kể rằng:...Thần làm quan đến Châu chủ bộ, Bộ tòng sự, đầu niên hiệu Thái Khang thì qua đời.
^Lưu Nghĩa Khánh, tlđd: Hà Yến, Đặng Dương lệnh Quản Lộ làm quẻ, nói: “Không biết vị đến tam công hay chăng?” Quẻ thành, Lộ viện dẫn nghĩa cũ, răn họ một cách sâu xa.
^Nay thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc. Lợi Tào là con ngòi do Tào Tháo xây dựng, nhằm dẫn nước Chương Hà vào Bạch Câu. Năm 213, Tào Tháo trở thành Ngụy công, xây dựng công trình này hòng kết nối giao thông của Ngụy đô Nghiệp Thành với bình nguyên Hà Bắc, huyện được đặt tên theo con ngòi này. Thủy kinh chú ghi nhận con ngòi này vẫn tồn tại đến đời Bắc Ngụy, do dòng chảy thay đổi, ngày nay không rõ vị trí cụ thể.
^Văn học duyện (文学掾) là quan chức phụ trách công tác giáo dục ở châu, quận đời Hán, gọi đầy đủ là Văn học Chủ sự duyện, gọi tắt là Văn học. Cuối đời Đông Hán, vương quốc, phủ thừa tướng cũng đặt quan chức này. Ví dụ: Tào Tháo từng lấy Tư Mã Ý làm Thế tử Văn học duyện, nhằm phù tá Tào Phi.
^黉/Huỳnh nghĩa là trường học, trường huyện Tức Khâu mà Quản Lộ đi học ở mục Học vấn cũng là dùng chữ Huỳnh này.
^Nguyên văn: 昊苍/hạo (bầu trời) thương (màu xanh của thực vật), nghĩa là trời xanh. Ví dụ: Ban Cố – Đáp tân hý: “Bất đổ kỳ năng phấn linh đức, hợp phong vân, siêu hốt hoang nhi cứ hạo thương dã.” (tạm dịch: Không thấy ông ấy nhấc linh đức, hợp gió mây, vượt hư không mà dựa hạo thương đấy.)
^玄虚/huyền hư, tức triết lý sâu xa, ảo diệu, phiếm chỉ tư tưởng của Đạo giáo. Ví dụ: Hậu Hán thư, Chu Cử truyện: “Hiệp tự Cự Thắng, thiếu thượng huyền hư.” (tạm dịch: Hiệp tự Cự Thắng, thiếu thời chuộng huyền hư.)
^Nguyên văn: 白日昼阴/bạch nhật trú âm. Bạch nhật nghĩa là ban ngày. Trú âm tức 白昼阴暗/bạch trú âm ám, là hiện tượng tối tăm giữa ban ngày; ví dụ: Tư Mã Tương Như – Trường môn phú: “Phù vân uất nhi tứ tái hề, thiên yểu yểu nhi trú âm.” (tạm dịch: Mây trôi che bốn phía, trời âm u trải khắp.)
^仰观天文/ngưỡng quan thiên văn. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ thượng: “Ngưỡng dĩ quan thiên văn, phủ dĩ sát địa lý.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch: Ngẩng lên tinh tượng vời trông, cúi nhìn cho thấu lạch sông, ngọn nguồn.)
^Nguyên văn: 幽薮/u tẩu, nghĩa là nơi đầm cỏ yên tĩnh, hẻo lánh. Ví dụ: Hậu Hán thư, Trương Giai truyện: “Khinh quý nhạc tiện, thoán tích u tẩu.” (tạm dịch: khinh sang thích hèn, trốn nơi u tẩu)
^Nguyên văn: 九皋/cửu cao, nghĩa là chỗ ao chằm quang co, xa xôi. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Hạc minh: “Hạc minh vu cửu cao, thanh văn vu dã.” (tạm dịch: Hạc kêu ở chín chằm, tiếng vang ở ngoài đồng.) Mao Thi giải thích “Cao, trạch dã. Ngôn thân ẩn nhi danh trứ dã.” (tạm dịch: Cao, chằm đấy. Nói người ở ẩn mà tiếng vẫn nổi đấy.) Trịnh Huyền chua: “Cao, trạch trung thủy dật xuất sở vi khảm, tự ngoại sổ chí cửu, dụ thâm viễn dã. Hạc tại trung minh yên, nhi dã văn kì minh thanh... Dụ hiền giả tuy ẩn cư, nhân hàm tri chi.” (tạm dịch: Cao, do nước trong chằm tràn ra làm nên chỗ trũng, được đánh số đến 9, ý nói rất xa đấy. Hạc ở đấy kêu lên, mà ngoài đồng vang tiếng kêu..., Ý nói người hiền dẫu ẩn cư, người vẫn biết đến.)
^Nguyên văn: 蒙阴和之应/mông âm hòa chi ứng. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Trung phu: “Hạc minh tại âm, kỳ tử hòa chi; ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mĩ chi.” (tạm dịch: Hạc kêu trong bóng râm, hạc con hòa với mẹ; chúng ta có chén rượu ngon, tôi cùng anh chia nhau.) Đời sau lấy điển cố “âm hòa” để ví von việc người hiền nhận lời ra làm quan giúp đời.
^Nguyên văn: 及羽仪之时/cập vũ nghi chi thì; Vũ nghi phiếm chỉ người có địa vị cao lại còn có tài đức, được người đời tôn kính, lấy làm tấm gương để nói theo. Nguồn gốc: Ban Cố – U thông phú: “Hoàng thập kỷ nhi hồng tiệm hề, hữu vũ nghi vu thượng kinh.” (tạm dịch: 10 kỷ vẻ vang mà lớn dần hề, có vũ nghi ở thượng kinh.) Nhan Sư Cổ dẫn Trương Yến chua: “Thành đế thì, Ban Huống nữ vi tiệp dư, phụ tử tịnh tại kinh sư vi triều thần dã.” (tạm dịch: Thời (Hán) Thành đế, con gái của Ban Huống làm Tiệp dư, cha con đều ở kinh sư làm triều thần đấy.)
^Nguyên văn: 药石/dược thạch, tức là 药剂/dược tễ (tễ thuốc) và 砭石/biêm thạch (kim đá), phiếm chỉ dược vật (thuốc men). Liệt tử, Dương Chu: “Cập kỳ bệnh dã, vô dược thạch chi trữ; cập kì tử dã, vô ế mai chi tư.” (tạm dịch: Đến khi bệnh, không dự trữ thuốc men; đến khi chết, không chi phí chôn cất.)
^Nguyên văn: 骐骥/kỳ ký, phiếm chỉ thiên lý mã. Ví dụ: Sở từ, Ly tao: “Thừa Kỳ Ký dĩ trì sính hề, lai ngô đạo phù tiên lộ. (Nhượng Tống dịch: Ngựa hay cưỡi lấy đi nhanh, lại đây ta chỉ cho mình đường quang.)
^Tôn Dương (孙阳) là người nước Cáothời Xuân Thu, phụng sự Tần Mục công. Tôn Dương có tài xem tướng ngựa, được Mục công phong làm Bá Nhạc tướng quân, đời sau quen gọi là Bá Nhạc (伯乐).
^Nguyên văn: 骋天骨/sính thiên cốt. Sính nghĩa là phát huy; Thiên cốt phiếm chỉ thân thể của ngựa tốt.
^Nguyên văn: 以此/dĩ thử, nghĩa là do đó, do vậy,... Nguồn gốc: Sử ký, Tôn tửNgô Khởi liệt truyện: “Quân nhân vị Vũ hầu viết: ‘Thí duyên dĩ công chúa, Khởi hữu lưu tâm tắc tất thụ chi, vô lưu tâm tắc tất từ hĩ. Dĩ thử bặc chi.” (tạm dịch: Ngài nhân dịp nói với (Ngụy) Vũ hầu: ‘Thử gả công chúa, nếu Khởi có lòng ở lại ắt nhận lời, không có lòng ở lại ắt từ chối. Do đó mà đoán được.)
^Nguyên văn: 荆山之璞/Kinh sơn cho phác, nghĩa là ngọc thô ở vùng núi đất Kinh (Sở Hùng Dịch được thụ phong ở đất Kinh, nên nước Sở còn gọi là Kinh Sở). Đây chính là ngọc bích họ Hòa.
^Nguyên văn: 高风遐被/cao phong hà bí. Cao phong là cơn gió từ nơi rất cao thổi đến, nguồn gốc: Lưu Hướng – Cửu thán, viễn du: “Tố cao phong dĩ đê hồi hề, lãm chu lưu vu sóc phương.” (tạm dịch: Làm cao phong để bồi hồi hề, xem vòng quanh ở phương bắc.) Hà (nơi xa) bí (kịp đến) là đến được một nơi rất xa.
^Nguyên văn: 莫不草靡/mạc bất thảo mỹ. Thảo mỹ miêu tả cảnh tượng cây cỏ cúi rạp vì gió lớn, phiếm chỉ 1 – trào lưu, xu hướng; 2 – tan tác, tan rã vì thất bại
^Nguyên văn: 翼宣/dực tuyên, nghĩa là giúp đỡ tuyên dương. Nguồn gốc: Phan Úc (nhà Hán) – Sách Ngụy công cửu tích văn: “Quân dực tuyên phong hóa, viên phát tứ phương.” (tạm dịch: Anh tuyên dực phong hóa, bèn phát bốn phương. Thiều Chửu dịch Phong hóa nghĩa là dùng chánh trị để cảm hóa.)
^Nguyên văn: 隆化/long hóa, phiếm chỉ xã hội ưa chuộng sự đôn hậu.
^Nguyên văn: 扬声/dương thanh, nghĩa là nói lớn tiếng, phiếm chỉ đánh tiếng (dương ngôn).
^Nguyên văn: 九围/cửu vi, tức cửu châu, ý nói Trung quốc. Nguồn gốc: Kinh Thi, Tụng, Thương tụng, Trường phát: “Đế mệnh thức vu cửu vi.” (tạm dịch: Mệnh lệnh của hoàng đế dùng ở cửu vi.) Khổng Dĩnh Đạt giải thích: “Vị cửu châu vi cửu vi giả, cái dĩ cửu phân thiên hạ, các vi cửu xử, quy vi nhiên, cố vị chi cửu vi dã.” (tạm dịch: Nói cửu châu là cửu vi ấy, tượng lấy 9 chia thiên hạ, đều làm 9 nơi, quy làm như thế, nên gọi là cửu vi đấy.)
^Nguyên văn: 草间/thảo gian, tức thảo (cỏ) tùng (bụi rậm) gian (khoảng), phiếm chỉ nhà quê (hương dã), dân gian.
^Nguyên văn: 清妙/thanh diệu, nghĩa là thanh cao và mỹ hảo.
^Nguyên văn: 清论/thanh luận, nghĩa là đàm luận thanh nhã.
^Căn cứ vào Sát cử chế (察举制) do nhà Hán đặt ra: châu cử Tú tài, quận cử Hiếu liêm, như vậy Quản Lộ được thứ sử Bùi Huy cử làm Tú tài.
^Nguyên văn: 不择/bất trạch, ý nói không cự tuyệt. Nguồn gốc: Hàn Phi tử, Đại thể: “Thái Sơn bất lập hảo ác, cố năng thành kì cao; giang hải bất trạch tiểu trợ, cố năng thành kì phú.” (tạm dịch: Thái Sơn không phân biệt tốt xấu, mới có thể nên cao; sông bể không cự tuyệt sự giúp đỡ nhỏ, mới có thể nên giàu.)
^Nguyên văn: 非类/phi loại, ý nói bất đồng thân phận.
^Nguyên văn: 体性/thể tính, nghĩa là bản tính. Ví dụ: Hậu Hán thư quyển 63, Lý Cố truyện: “Văn a mẫu thể tính khiêm hư, tất hữu tốn nhượng.” (tạm dịch: Nghe nói mẹ anh thể tính khiếm tốn, ắt có nhún nhường.)
^Nguyên văn: 宽大/khoan đại, nghĩa là có đại độ, rộng rãi không hà khắc. Ví dụ: Sử ký, Cao tổ bản kỷ: “Kim Hạng Vũ phiêu hãn, kim bất khả khiển. Độc Bái công tố khoan đại trường giả, khả khiển.” (tạm dịch: Nay Hạng Vũ mạnh tợn, nay không thể khiến. Riêng Bái công là trưởng giả khoan hậu, có thể khiến.)
^Nguyên văn: 臧否/tang (hay, tốt) bĩ (không, không phải), Thiểu Chửu dịch là thiện ác. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Đại nhã, Ức: “Ô hô tiểu tử, vị tri tang bĩ.” (Tạ Quang Phát dịch: Hỡi ôi! Ngài làm bực vua; Dữ lành, phải trái lại chưa biết gì.) Ví dụ: Gia Cát Lượng – Tiền xuất sư biểu: “Cung trung phủ trung câu vi nhất thể, trắc phạt tang phủ, bất nghi dị đồng.” (tạm dịch: Trong cung trong phủ đều là một thể, thăng chức và trừng phạt sự hay và dở, không nên khác biệt.)
^Tấn thư, Thiên văn chí: “Lỗ hữu Tử Thận, Tấn hữu Bốc Yển, Trịnh hữu Bì Táo, Tống hữu Tử Vi, Tề hữu Cam Đức, Sở hữu Đường Muội, Triệu hữu Doãn Cao, Ngụy hữu Thạch Thân Phu, giai chưởng trứ thiên văn, các luận đồ nghiệm.” (tạm dịch: Nước Lỗ có Tử Thận, nước Tấn có Bốc Yển, nước Trịnh có Bì Táo, nước Tống có Tử Vi, nước Tề có Cam Đức, nước Sở có Đường Muội, nước Triệu có Doãn Cao, nước Ngụy có Thạch Thân Phu, cùng nắm bắt thiên văn, đều bàn về ý nghĩa của bản đồ sao.)
^Nguyên văn: 灵台/Linh đài, cái đài được xây bởi Chu Văn vương, cũng là tên bài thơ tương truyền do Văn vương sáng tác và phổ nhạc, nhằm ca tụng sự thịnh vượng. Kinh Thi, Nhã, Đại nhã, Linh đài: “Kinh thủy linh đài, kinh chi doanh chi, thứ dân công chi, bất nhật thành chi.” (Tạ Quang Phát dịch: Làm Linh Đài bắt đầu đo nhắm; đã đo rồi thì cắm trụ liền; nhân dân làm lụng xây nên; một ngày không hết hiển nhiên dựng thành.) Chu Hy giải thích: đài gọi là Linh đài vì cái đài được làm rất nhanh, như có thần linh trợ giúp.)
^Nguyên văn: 三光/tam quang, tức là ánh sáng của mặt trời (nhật), mặt trăng (nguyệt) và các vì sao (tinh). Bạch hổ thông, Phong công hầu: “Thiên đạo mạc bất thành vu tam, thiên hữu tam quang, nhật, nguyệt, tinh; địa hữu tam hình, cao, hạ, bình; nhân hữu tam tôn, quân, phụ, sư.” (tạm dịch: Đạo trời chẳng có gì không làm thành bộ ba, trời có 3 nguồn sáng: mặt trời, mặt trăng và các vì sao; đất có 3 hình thế: cao, thấp và bằng; người có 3 bề trên: vua, cha và thầy.)
^Nguyên văn: 星辰/tinh (sao) thần (còn đọc là Thìn), gọi chung các ngôi sao trên bầu trời. Nguồn gốc: Kinh Thư, Nghiêu điển: “Lịch tượng nhật nguyệt tinh thần.” (tạm dịch: Lịch giống như mặt trời, mặt trăng, tinh thần.
^Nguyên văn: 大异之才/đại dị chi tài. Dị tài (异才) nghĩa là tài năng đặc biệt hoặc người có tài năng đặc biệt. Ví dụ: Vương Sung – Luận hành, Vấn khổng: “Bỉ kiến Khổng tử vi sư, thánh nhân truyền đạo tất thụ dị tài, cố vị chi thù." (tạm dịch: Ông ta nhận Khổng tử làm thầy, được thánh nhân truyền đạo ắt có dị tài, nên mới nói ông ấy khác biệt.)
^Nguyên văn: 官舍/quan xá. Có 2 nghĩa: 1, là nơi ở dành cho quan viên rời nhà đến địa phương khác nhậm chức, chế độ này hình thành từ đời Tần; 2, nha môn, nơi làm việc của quan viên. Ở đây nhiều khả năng dùng nghĩa thứ hai.
^Nguyên văn: 旗鼓相当/kỳ (cờ) cổ (trống) tương đương (bằng nhau). Ý nói đôi bên có lực lượng ngang nhau. Thành ngữ có nguồn gốc từ Hậu Hán thư, Ngỗi Hiêu truyện, bấy giờ Hán Quang Vũ đế đang đánh dẹp Trung Nguyên, chưa thể tính đến Ngỗi Hiêu ở Lũng và Công Tôn Thuật ở Thục. Nghe tin Hiêu vừa đẩy lui Thuật, Quang Vũ đế gởi thư đề nghị liên minh với Hiêu, nói mình bận rộn ở phương đông, không thể ngăn được Thuật dòm ngó Hán Trung, Tam Phụ, nếu có sự giúp đỡ của Hiêu thì đế sẽ cùng Thuật ‘kỳ cổ tương đương’ ở phương tây.
^枝节横生/chi (cành) diệp (lá) hoành sanh (đâm ngang ra), ý nói sự việc nảy sinh chi tiết ngoài ý muốn.
^Nguyên văn: 灾异/tai dị, tức là hiện tượng tự nhiên vừa tai hại và dị thường. Nguồn gốc: Hán thư, Tuyên đế kỷ: “Cái tai dị giả, thiên địa chi giới dã.” (tạm dịch: Điềm tai dị ấy, là lời răn của trời đất vậy.)
^Nguyên văn: 仰观/ngưỡng quan: ngửa mặt mà nhìn, ý nói xem thiên văn.
^Nguyên văn: 风角/phong giác, nghĩa đen là gió hú, là phép bói toán đời xưa, nghe tiếng gió thổi để đoán may rủi.
^Nguyên văn: 闇浅/ám (mờ) thiển (nông), nghĩa là ngu muội ít hiểu biết.
^Nguyên văn: 孔怀之亲/khổng (rất) hoài (nhớ) chi thân, Khổng hoài phiếm chỉ (tình) anh em. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Thường lệ: “Tử tang chi uy, huynh đệ khổng hoài.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch: Tang ma những buổi u buồn; anh em thân thích lệ tuôn dòng sầu.”)
^Nguyên văn: 弹曲直/đàn (đàn hặc) khúc (cong) trực (thẳng). Đàn khúc phiếm chỉ 司直/Tư trực, tức là quan viên chuyên môn phụ trách đốc xét hành vi trái phép của quan lại, các triều đại sau gọi là Ngự sử.
^Nguyên văn: 临文慷慨/lâm văn khảng khái. Lâm văn nghĩa là soạn chép, sao lục văn chương; nguồn gốc: Lễ ký, Khúc lễ thượng: “Thi Thư bất húy, lâm văn bất húy.” (tạm dịch: Kinh Thi, kinh Thư không kiêng, lâm văn không kiêng.) Khảng khái được Thiều Chửu dịch là hăng hái, có ý khí hăng hái vì nghĩa; ví dụ: Tô Tuân – Trương Ích Châu họa tượng ký: “ Vi nhân khảng khái hữu đại tiết, dĩ độ lượng hùng thiên hạ.” (Thiều Chửu dịch: Là người khảng khái có khí tiết lớn, nhờ độ lượng mà hơn thiên hạ.)
^Nguyên văn: 神明/thần minh, cách gọi chung của thần linh. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Thuyết quái: “Tích giả thánh nhân chi tác Dịch dã, u tán vu thần minh nhi sanh thi.” (tạm dịch: Thánh nhân ngày xưa làm Dịch đấy, nhờ thần linh ở cõi xa xăm chỉ dẫn mà nuôi cỏ thi.)
^Cuộc nói chuyện này diễn ra sau năm 224, tức Quản Lộ đã nhiều hơn 15 tuổi; còn Tào Phi đã soán ngôi nhà Hán vào năm 220.
^Nguyên văn: 贱妇人/tiện phụ nhân. Tiện dân là giai tầng thấp nhất trong xã hội cổ đại, bao gồm nhiều thành phần: nô tỳ, diễn viên, kỹ nữ, tội nhân,...
^Nguyên văn: 魑魅魍魉/si mị võng lượng. Theo truyền thuyết, Si mị hay 螭魅/li mị là quái ở trên núi, võng lượng hay 罔两/võng lưỡng là quái ở dưới nước.
^Trương Hoa – Bác vật chí quyển 9 chép: “Thủy có quái gọi là Long Võng Tượng, mộc có quái gọi là Quỳ Võng Lưỡng, thổ có quái gọi là Phần Dương, Hỏa có quái gọi là Tống Vô Kỵ.
^Nguyên văn: 铃下, chỉ môn vệ (gác cửa), thị tòng. Ví dụ: Tam quốc chí, Lữ Bố truyện kể rằng trong sự kiện bắn kích ở viên môn, Lữ Bố đã sai “linh hạ” đi mời bọn Kỷ Linh, Lưu Bị đến dự tiệc.
^Nay là trấn Ký Châu, khu Ký Châu, địa cấp thị Hành Thủy, Hà Bắc. Thời Đông Hán – Tào Ngụy, huyện Tín Đô thuộc quận An Bình.
^Nguyên văn: 见闻/kiến (thấy) văn (nghe), nghĩa là (được) trông thấy và (được) nghe thấy, ý nói Quản Lộ lúc này mới thật sự ra đời (xuất thế).
^Nguyên văn: 为难之至精/vi nan chi chí tinh. Vi (làm) nan (khó) nghĩa là cố ý gây khó cho người ta, khiến họ không thể làm xong việc gì; ví dụ: Hàn Phi tử, Thuyết lâm hạ: “HànTriệu tương dữ vi nan. Hàn tử tác binh vu Ngụy.” (tạm dịch: Hàn, Triệu gây khó dễ lẫn nhau. Hàn tử mượn binh ở Ngụy.) Chí (cực) tinh (tinh hoa) phiếm chỉ một tồn tại (nhân/sự vật) đạt đến mức tinh diệu tuyệt luân trong triết học Trung Quốc; ví dụ: Lữ thị xuân thu, Quân thủ: “Thiên vô hình nhi vạn vật dĩ thành, chí tinh vô tượng nhi vạn vật dĩ hóa.” (tạm dịch: Trời vô hình mà muôn vật đã nên, chí tinh vô tượng mà muôn vật đã hóa.)
^Nguyên văn: 运神通化/vận (xoay vần) thần (tinh thần) thông (thông suốt) hóa (hóa trong giáo hóa). Vận thần ý nói hành vi tập trung tinh thần để suy nghĩ; Thông hóa ý nói 开导教化/khai đạo giáo hóa.
^Nguyên văn: 连属/liên thuộc, nghĩa là liên kết, nối liền (liên tiếp, liên tục). Nguồn gốc: Trang tử, Mã đề: “Đương thị thì dã, sơn vô hề toại, trạch vô chu lương, vạn vật quần sanh, liên thuộc kì hương.” (tạm dịch: Vào lúc bấy giờ, núi không có hầm, đường, chằm không có thuyền, cầu, muôn vật sống bầy đàn, liên thuộc quê hương) Thành Huyền Anh giải nghĩa: “Phu hỗn mang chi thế, thuần hòa đạm mạc, cố vô tình vạn vật liên tiếp nhi cộng lí lư, hữu thức quần sanh hệ thuộc nhi đồng hương huyền.” (tạm dịch: Ôi cái thời hỗn mang, đơn giản đạm bạc, nên vô tình khiến muôn vật nối liền mà chung làng mạc, có ý sống bầy đàn ràng buộc nên cùng quê hương.)
^Nguyên văn: 乃尔/nãi nhĩ, ý nói như thế. Ví dụ: Tam quốc chí, Lữ Khải truyện: “Thần bất nguyện Vĩnh Xương phong tục đôn trực nãi nhĩ!” (tạm dịch: Bề tôi không mong phong tục của Vĩnh Xương thuần phác như thế!)
^Nguyên văn: 幽明/u minh, ý nói những sự vật vô hình và hữu hình. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ hạ: “Ngưỡng dĩ quan vu thiên văn, phủ dĩ sát vu địa lí, thị cố tri u minh chi cố.” (tạm dịch: Ngước để xem thiên văn, cúi để xét địa lý, ấy mới biết duyên cớ của u minh.) Hàn Khang Bá chua: “U minh giả, hữu hình vô hình chi tượng.” (tạm dịch: U minh ấy, tượng của hữu hình và vô hình.)
^Nguyên văn: 方今/phương kim, nghĩa là hiện tại, đương thời. Ví dụ: Trang tử, Bào đinh giải ngưu: “Phương kim chi thì, thần dĩ thần ngộ nhi bất dĩ mục thị, quan tri chỉ nhi thần dục hành.” (Nguyễn Hiến Lê dịch: Lúc này thần dùng tinh thần hơn là dùng mắt. Cảm quan ngưng lại, chỉ còn tâm thần là hoạt động.)
^Nguyên văn: 四九天飞, 利见大人/tứ cửu thiên phi, lợi kiến đại nhân (tạm giải nghĩa: bốn chín bay lên trời, gặp đại nhân thì lợi). Kinh Dịch, quẻ Thuần Càn, hào Cửu tứ: "Hoặc dược, tại uyên, vô cữu" (như rồng có lúc bay nhảy, có lúc nằm dưới vực, không phạm lỗi); hào Cửu ngũ: "Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân" (tạm giải nghĩa: rồng bay trên trời, gặp đại nhân thì lợi). Đây là Quản Lộ tiên tri sự biến lăng Cao Bình.
^Cửa Đông Dương là cửa ở mặt đông thành Lạc Dương thời Ngụy - Tấn. Ví dụ: Tư trị thông giám quyển 81, Tấn kỷ 3, Thế tổ Vũ hoàng đế trung Thái Khang nguyên niên: “Lang Da vương Trụ khiển sử tống Tôn Hạo cập kì tông tộc nghệ Lạc Dương. Ngũ nguyệt Đinh hợi sóc, Hạo chí, dữ kì thái tử Cấn đẳng nê đầu diện phược, nghệ Đông Dương môn.” (tạm dịch: Lang Da vương Trụ sai sứ đưa Tôn Hạo cùng tông tộc đi Lạc Dương. Ngày sóc Đinh hợi tháng 5, Hạo đến, cùng bọn thái tử Cấn trát bùn mặt, trói ngược tay, đi cửa Đông Dương.)
^Nội sử là quan chức ở kinh đô mới có, nên sự kiện này có lẽ xảy ra ở Lạc Dương.
^Thiều Chửu cho biết: lúc sắp ra đi làm lễ thần đường, gọi là 祭祖/tế tổ, nên gọi sự tiễn người đi xa là 祖饯/tổ tiễn, bởi noi theo ý ấy.
^Nguyên văn: xạ phúc (射复) là trò đánh cược đời xưa. Xạ (nghĩa đen là bắn) phiếm chỉ phỏng đoán, Phúc (nghĩa đen là lật, mở) phiếm chỉ che đậy. Người đoán có thể tùy ý dùng các hình thức bói toán: bặc (bói mai rùa), thệ (bói cỏ thi), nhìn gió thổi, nghe chim kêu,... để suy đoán vật bị trùm kín, đậy chặt là gì.
^Nguyên văn: 孤虚/cô hư. Đời xưa 1 tuần có 10 ngày, các ngày được phối bởi 10 can và 12 chi. 2 chi còn dư được gọi là Cô, đối xứng với Cô là Hư. Ví dụ: Trong tuần Giáp tý không có Tuất – Hợi, nên Tuất – Hợi là Cô, (dựa vào Tý bắc Ngọ nam mà suy ra) Thìn – Tị tức là Hư. Người xưa căn cứ vào cô – hư để tính toán họa – phúc, thành – bại.
^Nguyên văn: 奔北/bôn bắc. Nghĩa là thua trận nên bỏ chạy. Kinh Thư, Cam thệ: “Phất dụng mệnh, lục vu xã.” (tạm dịch: Chẳng nghe lệnh, bị lục ở Xã.) Khổng An Quốc (nhà Hán) chua: “Bất dụng mệnh bôn bắc giả, tắc lục chi vu Xã.” (tạm dịch: Không nghe lệnh nên bôn bắc, ắt bị lục ở Xã.) (lục là giết rồi phanh thây)
^Nguyên văn: 面缚衔璧/diện phược hàm bích. Diện phược là hành vi tự chịu trói quặt 2 tay ra sau lưng, biểu thị thái độ đầu hàng. Ví dụ: Tả truyện, (Lỗ) Tương công năm thứ 18: “Nãi thỉ cung nhi tự hậu phược chi. Kì hữu Cụ Bính diệc xá binh nhi phược Quách Tối, giai câm thân diện phược, tọa vu trung quân chi cổ hạ.) (tạm dịch: (Tướng Tề là Thực Xước) bèn buông cung tự trói quặt ra sau lưng. (Xa) hữu Cụ Bính cũng bỏ binh khí mà trói Quách Tối, (Xước và Tối) đều mặc giáp mà diện phược, ngồi ở dưới trống tại trung quân.” Dương Bá Tuấn chua: “Diện phược, tức tự hậu phược chi.” (tạm dịch: Diện phược, tức tự trói quặt ra sau lưng.) Hàm bích là hành vi biểu thị thái độ đầu hàng của quân chủ một nước. Nguồn gốc: Tả truyện, (Lỗ) Hi công năm thứ 6: “Hứa nam diện phược hàm bích đại phu suy điệt sĩ dư sấn.” (tạm dịch: Hứa nam (nam tước của nước Hứa) diện phược hàm bích, đại phu mặc áo gai đội mũ gai, quan viên đẩy xe chở quan tài.) Đỗ Dự chua: “Phược thủ vu hậu duy kiến kì diện dĩ bích vi chí thủ phược cố hàm chi.” (tạm dịch: Sau khi trói quặt tay, lại muốn dâng ngọc bích ở đằng trước, nên phải ngậm nó.) (Về bích, Thiều Chửu chép: “Đời xưa chia ra làm năm tước, mỗi tước được cầm một thứ bích. Như tước tử thì cầm 谷璧/cốc bích, tước nam cầm 蒲璧/bồ bích,...”)
^Nguyên văn: 总干山立/tổng can sơn lập. Nguồn gốc: Lễ ký, Nhạc ký: “Phu nhạc giả, tượng thành giả dã. Tổng can nhi sơn lập, Vũ vương chi sự dã; phát dương đạo lệ, Thái công chi chí dã.” (tạm dịch: Ôi nhạc ấy, giống thành ấy vậy. Tổng can mà sơn lập, là việc của Vũ vương vậy; phát huy tiến bộ, là chí của Thái công vậy.) Trịnh Huyền chua: “Tổng can, trì thuẫn dã.” (tạm dịch: Tổng can, là cầm thuẫn đấy.) Khổng Dĩnh Đạt giải thích: “Sơn lập giả, nhược trụ lập tắc nghi như sơn chi cố, bất diêu động dã.” (tạm dịch: Sơn lập ấy, cũng như đứng lại thì sừng sững như núi, không dao động ấy.)
^Nguyên văn: 五色成文/ngũ sắc thành văn. Nguồn gốc: Lễ ký, Nhạc ký: “Ngũ sắc thành văn nhi bất loạn.” (tạm dịch: Năm màu nên văn mà không loạn.) Chu Dịch, Hệ từ hạ: “Đạo hữu biến động, cố viết Hào. Hào hữu đẳng, cố viết Vật. Vật tương tạp, cố viết Văn. Văn bất đáng, cố cát hung sinh yên.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: “Đạo là chuyển động, biến rời, dùng Hào tả biến, ngược xuôi, rõ rành. Có Hào, đẳng cấp cũng sinh, thế là vật, loại cũng trình hiện ra. Âm, Dương đắp đổi giao thoa, vật chen lẫn vật, thế là thành Văn. Nếu mà lộn lạo, nhố nhăng, là Văn bất xứng, cát hung sinh liền.” Và giải thích: “Hào mô tả sự biến động trong trời đất. Hào có trên dưới, khinh trọng, đẳng cấp cốt để tượng trưng cho các loài, các vật trong thiên hạ. Các vật loại chung đụng với nhau, tác động với nhau tạo ra những nét đặc thù, những tình trạng đặc biệt. Những nét đặc thù, những tình trạng đặc biệt ấy, ở trong quẻ thời được tạo nên do các hào Âm Dương giao thoa với nhau, vì thế gọi là Văn (văn vẻ, mầu sắc thì là đen trắng). Trong thiên nhiên, vạn vật tác động với nhau hợp tình, hợp lý thì tốt, không hợp tình, hợp lý thì hung. Nơi quẻ, thì các Hào xứng ngôi, sẽ hay; không xứng ngôi, đáng vị sẽ dở. Tóm lại, Hào phản ảnh lại các sự biến hóa trong Trời Đất.”
^Nguyên văn: 出则有章/xuất tắc hữu chương, nghĩa là (được) đem ra thời có phép tắc và văn vẻ. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Đô nhân sĩ chi thập: “Bỉ đô nhân sĩ, hồ cừu hoàng hoàng. Kỳ dung bất cải, xuất ngôn hữu chương.” (Tạ Quang Phát dịch: Sĩ nhân kia ở kinh kỳ; da chọn làm áo, màu thì vang trời. Lúc bình thường dáng người không đổi; khi thốt ra lời nói văn chương.) Trịnh Huyền chua: “Thổ khẩu ngôn ngữ, hựu hữu pháp độ văn chương.” (tạm dịch: Lời nói thốt ra khỏi miệng, lại có pháp độ và văn chương.)
^Nguyên văn: 高岳岩岩/cao nhạc nham nham. Nham nhâm nghĩa là cao chót vót. Nguồn gốc: Kinh Thi, Tụng, Lỗ tụng, Bí cung: “Thái Sơn nham nham, Lỗ bang sở chiêm.” (tạm dịch: Thái Sơn chót vót, nước Lỗ đến lấy.)
^Nguyên văn: 玄黄/huyền hoàng. Nguồn gốc: Kinh Dịch, quẻ Thuần Khôn: “Phu huyền hoàng giả thiên địa chi tạp dã, thiên huyền nhi địa hoàng.” (tạm dịch: Ôi đen vàng là sự lẫn lộn của trời đất đấy, trời đen mà đất vàng.) Ở đây ý nói màu sắc tạp nhạp.
^Huyện Thanh Hà là lỵ sở của quận Thanh Hà, có vị trí ngày nay là huyện Lâm Tây, địa cấp thị Hình Đài, Hà Bắc, hoàn toàn sai lệch với huyện Thanh Hà, Hình Đài láng giềng.
^Nguyên văn: 文章/văn chương, nghĩa là hoa văn sặc sỡ và đẹp đẽ. Nguồn gốc: Sử ký quyển 23, Lễ thư: “Khắc lũ văn chương, sở dĩ dưỡng mục dã.” (tạm dịch: Chạm trổ văn chương, nên mới nuôi mắt vậy.)
^Nguyên văn: 八风/bát phong. Hoài Nam tử, Địa hình huấn: “Hà vị bát phong? Đông bắc viết Viêm phong, đông phương viết Điều phong, đông nam viết Cảnh phong, nam phương viết Cự phong, tây nam viết Lương phong, tây phương viết Liêu phong, tây bắc viết Lệ phong, bắc phương viết Hàn phong.”
^Nguyên văn: tây gia nhân. Tây gia nhân có thể hiểu là: 1 – Tây (biên lân cư) nhân gia: nhà hàng xóm ở mé tây. 2 – đầy tớ trong nhà; vì Đông gia phiếm chỉ chủ nhà, tây gia phiếm chỉ đầy tớ.
^Nguyên văn: 离娄/li lâu, nghĩa là vướng mắc. Ví dụ: Kê Khang – Đáp thích nan, Trạch vô cát hung nhiếp sanh luận: “Tiền luận ký dĩ tương mệnh vi chủ, nhi tầm ích dĩ tín thuận, thử nhất li lâu dã.” (tạm dịch: Lời bàn trước đã lấy tướng mệnh làm chủ, mà tìm thêm để tin thuận, đây là một cái vướng mắc đấy.)
^Nguyên văn: 虞渊之际/Ngu Uyên chi tế. Ngu Uyên có tài liệu gọi là 虞泉/Ngu Tuyền, theo truyền thuyết là nơi mặt trời lặn.
^Nguyên văn: đồng Ngũ nhân. Đời xưa lấy 5 hộ kết làm 1 ngũ, chiếu cố lẫn nhau. Tấn thư, Hình pháp chí: “Mưu phản chi đồng ngũ, thật bất tri tình, đương tòng hình.” (tạm dịch: Người cùng ngũ mưu phản, không biết tình hình, chịu tội tòng phạm.)
^Đê Liệt Nhân được xây dựng vào đời Tây Hán, ngày nay ở phía đông bắc khu Phì Hương, địa cấp thị Hàm Đan, Hà Bắc. Huyện được đặt tên theo đê, bấy giờ cũng thuộc quận quốc Quảng Bình. Cuối đời Đông Hán, Tào Tháo đặt chức Điển nông trung lang tướng ở quận và Điển nông hiệu úy ở huyện tại những địa phương có đồn điền, coi sóc nông nghiệp sanh sản, dân chánh và điền tô, có quyền lực và bổng lộc ngang với chức Quận thái thú, Huyện lệnh. Đào Khiêm từng tiến cử Trần Đăng làm Điển nông hiệu úy. Cuối đời Tào Ngụy, các chức vụ này bị phế bỏ. Vì Liệt Nhân là huyện, nên chức vụ của Vương Hoằng Trực phải là Điển nông hiệu úy.
^Đẩu ở đây là Bắc Đẩu. Sử ký quyển 27, Thư 5, Thiên quan thư chép: “Đẩu là xe của vua, chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia âm dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.” 4 sao Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc tạo thành Đẩu khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Toàn cơ. 3 sao Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân tạo thành Đẩu bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đẩu chước hoặc Ngọc hành. Đuôi gáo trỏ vào thần trong 12 chi gọi là Đẩu kiến, nhằm xác định 12 Tiết hậu. Ví dụ: Đẩu kiến Thân.
^Nguyên văn: 府丞/phủ thừa, nghĩa là thuộc quan của quan thái thú. Nguồn gốc: Hán thư, Khốc lại truyện, Nghiêm Duyên Niên: “Tam tuế, thiên Hà Nam thái thú... phủ thừa nghĩa xuất hành hoàng, hoàn, kiến Duyên Niên.” (tạm dịch: Năm thứ 3, thăng Hà Nam thái thú... phủ thừa phải ra xem châu chấu, trở về, gặp Duyên Niên.)
^Nguyên văn: 天庭/thiên đình, là khu vực nằm giữa 2 hàng lông mày.
^Nguyên văn: 厚味腊毒/hậu vị tịch độc. Nguồn gốc: Quốc ngữ, Chu ngữ hạ: “Cao vị thật tật điên, hậu vị thật tịch độc.” (tạm dịch: Ngôi cao giống như bệnh tật ngả nghiêng, mùi nồng giống như rượu độc) Vi Chiêu chua: “Hậu vị, dụ trọng lộc dã. Tịch, cức dã, độc nhược ‘yểm’. Tích tửu yên, vị hậu giả, kì độc cức dã.” (tạm dịch: Mùi nồng, bảo bổng lộc quá đấy. Tịch, kíp đấy, đọc như 焉/yên/yǎn. Xưa là rượu đấy, vị nồng vậy, độc ấy kíp đấy.)
^Nguyên văn: 青蝇/thanh dăng. 蝇/dăng nghĩa là con ruồi, 苍蝇/thương dăng hay 青蝇/thanh dăng nghĩa là con nhặng.
^Kinh Thi, Tụng Lỗ tụng, Phán thủy: “Phiên bỉ phi hào, tập vu Phán lâm, thực ngã tang trẩm, hoài ngã hảo âm.” (tạm dịch: Vọ bay vù vù, đậu ở rừng bên sông Phán, ăn quả dâu của ta, kêu lên khiến ta vui tai; 好音/hảo âm là âm thanh khiến người ta cảm thấy vui tai)
^Nguyên văn: 元,凯之弼重华,宣惠慈和/Nguyên, Khải chi bật Trọng Hoa, tuyên huệ từ hòa. Câu này có nguồn gốc từ Tả truyện, (Lỗ) Văn công năm thứ 18, thuật lại cố sự: Cao Dương thị (Chuyên Húc) có 8 hiền thần gọi là Bát Khải; Cao Tân thị (tức Đế Khốc, kế vị Chuyên Húc) có 8 hiền thần gọi là Bát Nguyên. Diêu Trọng Hoa mời hậu duệ của Bát Nguyên, Bát Khải ra giúp mình làm việc, lập nên 21 đại công, nên được Đế Nghiêu truyền ngôi, trở thành Đế Thuấn. Đời sau dùng khái niệm Nguyên Khải phiếm chỉ hiền tài, danh sĩ. Cũng trong đoạn văn này, lời khen dành cho thành tích của hậu duệ của Bát Khải, Bát Nguyên trong việc giúp Diêu Trọng Hoa là Tuyên huệ từ hòa. Tuyên huệ nghĩa là rộng ban ân huệ; nguồn gốc: Quốc ngữ, Tấn ngữ 7: “Quân tri Sĩ Trinh tử chi suất chí bác văn nhi tuyên huệ vu giáo dã, sử vi thái phó.” (tạm dịch: Vua biết Sĩ Trinh tử (tức Sĩ Ác Trọc) nuôi chí học rộng mà tuyên huệ ở giáo dục, khiến làm Thái phó.) Từ hòa nghĩa là hiền lành hòa nhã; Nguồn gốc: Quốc ngữ, Chu ngữ hạ: “Từ hòa năng huệ.” Vi Chiêu chua: “Từ, ái; hòa, mục; cố năng huệ dã.” (tạm dịch: Từ là yêu; hòa là thân; mới có thể tạo ơn.”
^Nguồn gốc: Mạnh tử, Li lâu hạ: “Ngưỡng nhi tư chi, dạ dĩ kế nhật; hạnh nhi đắc chi, tọa dĩ đãi đán.” (tạm dịch: (Chu công) ngẩng đầu suy nghĩ, đêm đã sang ngày, may mà nghĩ ra, ngồi để đợi sáng.)
^Nguyên văn: 流光/lưu quang, ý nói phúc trạch lưu truyền đến đời sau. Nguồn gốc: Cốc Lương truyện, (Lỗ) Hi công năm thứ 15: “Đức hậu giả lưu quang, đức bạc giả lưu ti.” (tạm dịch: Đức dầy thì để lại vẻ vang, đức mỏng thì để lại thấp hèn.)
^Nguyên văn: 六合/lục hợp, là 6 phương Thiên (hoặc Thượng) – Địa (hoặc Hạ) – Đông – Tây – Nam – Bắc, phiếm chỉ thiên hạ. Nguồn gốc: Sử ký, Tần Thủy hoàng bản kỷ: “Lục hợp chi nội, hoàng đế chi thổ.” (tạm dịch: Ở trong lục hợp, là đất của hoàng đế.)
^Nguyên văn: 履道休应/lý đạo hưu ứng. Lý đạo nghĩa là đi trên đường chính. Nguồn gốc: Kinh Dịch, quả Thiên Trạch Lý, hào Cửu nhị: “Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát.” (tạm giải nghĩa: đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì lành.) Hưu (tốt, lành) ứng (ứng theo) nghĩa là điềm lành.
^Nguyên văn: 怀德者鲜,畏威者众/hoài đức giả tiển, úy uy giả chúng. Úy uy (sợ oai) hoài đức (nhớ đức) có nguồn gốc từ Quốc ngữ, Tấn ngữ 8: “Dân úy kì uy, nhi hoài kì đức, mạc năng vật tòng.” (tạm dịch: Dân sợ uy ông ấy, rồi nhớ đức ông ấy, chẳng thể thì chớ nghe theo.)
^Nguyên văn: 小心翼翼多福之仁/tiểu tâm dực dực đa phúc chi nhân. Tiểu tâm dực dực miêu tả dáng vẻ cung kính cẩn thận. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Đại nhã, Đại minh: “Duy thử Văn vương, tiểu tâm dực dực.” (tạm dịch: Chỉ có Văn vương, tiểu tâm dực dực.) Trịnh Huyền chua: “Tiểu tâm dực dực, cung thận mạo.” (tạm dịch: Tiểu tâm dực dực, vẻ cung kinh cẩn thận.)
^Bùi Tùng Chi khảo xét: Xem sách nói chỗ của mũi ở giữa trời. Mũi có dáng núi, nên rằng: “Núi ở giữa trời” đấy.
^Nguyên văn: 害盈/hại doanh, ý nói kiêu ngạo tự mãn nên gặp tai vạ. Nguồn gốc: Kinh Dịch, quẻ Địa Sơn Khiêm, Thoán, Thoán truyện: “Thiên đạo hạ tế nhi quang minh. Địa đạo ti nhi thượng hành. Thiên đạo khuy doanh nhi ích Khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu Khiêm. Quỷ thần hại doanh nhi phúc Khiêm. Nhân đạo ố doanh nhi hiếu Khiêm. Khiêm tôn nhi quang. Ti nhi bất khả du. Quân tử chi chung dã.” (Hạnh Chơn dịch: Đạo trời là rút bớt chỗ dư thừa mà bồi đắp chỗ thiết hụt. Quy luật của đất đai là chỗ cao lồi thì bị xói mòn còn chỗ trũng thấp thì đước đắp bồi. Luật quỷ thần thì trừng phạt kẻ ngạo mạn, ban phước cho người khiêm tốn, đạo là người thì tự mãn bị ghét còn khiêm hạ được thương.)
^Nguồn gốc: Kinh Dịch, quẻ Địa Sơn Khiêm, Đại tượng truyện: “Địa trung hữu sơn. Khiêm. Quân tử dĩ bầu đa ích quả. Xứng vật bình thi.” (tạm dịch: Núi ở dưới đất là Khiêm. Quân tử thấy nhiều thì bớt, ít thì thêm. Sao cho vừa vặn, cân đối.) và quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, Đại tượng truyện: “Lôi tại thiên thượng. Đại Tráng. Quân tử dĩ phi lễ bất lý.” (tạm dịch: Sấm ở trên trời là Đại Tráng. Quân tử thấy điều gì trái lẽ thì đừng làm.)
^Nguyên văn: 尼父/Ni phụ, tài liệu khác gọi là 尼甫/Ni phủ, nghĩa là cha Ni, cách gọi tôn kính dành cho Khổng tử. Ví dụ: Bạch Hổ thông, Thánh nhân: “Khổng tử phản vũ, thị vị Ni phủ.” (tạm dịch: Khổng tử phản đối vũ lực, nên gọi là cha Ni.)
^Nguyên văn: 舅氏/cữu thị, nghĩa là cậu (anh/em của mẹ). Ví dụ: Kinh Thi, Phong, Tần phong, Vị Dương tự: “Ngã kiến cữu thị, như mẫu tồn yên.” (tạm dịch: Tôi thấy cữu thị, như mẹ vẫn còn.) Khổng Dĩnh Đạt giải nghĩa: “Vị cữu vi thị giả, dĩ cữu chi dữ sanh thị tính tất dị, cố thư truyện thông vị vi cữu thị.” (tạm dịch: Nói 舅/cữu là 氏/thị ấy, bởi họ của cữu và sanh thị/nhà ngoại ắt khác, nên sách vở quen gọi là cữu thị.)
^Nguyên văn: 切至/thiết chí, ý nói thái độ khẩn thiết, ngay thẳng để tận lý. Ví dụ: Hậu Hán thư, Dương Chấn truyện: “Chấn tiền hậu sở thượng, chuyển hữu thiết chí, đế kí bất bình chi, nhi Phàn Phong đẳng giai trắc mục phẫn oán.” (tạm dịch: Chấn trước sau dâng lời, xoay vần thiết chí, mà bọn Phàn Phong đều nghé mắt phẫn oán.)
^Theo Tư trị thông giámquyển 75, Ngụy kỷ 7, năm Gia Bình đầu tiên thời Thiệu Lăng Lệ công (tức năm Kỷ tị, 249), bọn Hà Yến, Đặng Dương bị kết tội là đồng đảng mưu phản của Tào Sảng, cùng bị giết vào ngày Mậu tuất, 10 tháng 1 ÂL (9 tháng 2).
^Nguyên văn: 交错/giao thác, ý nói bắt chéo (交叉/giao thoa) lẫn lộn (错杂/thác tạp). Ví dụ: Sử ký, Biển ThướcThương công liệt truyện: “Thái tử bệnh huyết khí bất thì, giao thác nhi bất đắc tiết, bạo phát vu ngoại, tắc vi trung hại.” (tạm dịch: Bệnh của thái tử huyết khí không đều, giao thác mà không tiết được, bạo phát ở ngoài, thời làm hại ở trong.) Hậu Hán thư, Lưu Huyền truyện: “Chư tướng xuất chinh, các tự chuyên trí mục thú, châu quận giao thác, bất tri sở tòng.” (tạm dịch: Chư tướng xuất chinh, đều tự đặt các quan mục – thú, châu quận giao thác, không biết theo ai.)
^Nguyên văn: 精爽/tinh sảng, ý nói tinh thần. Nguồn gốc: Tả truyện, (Lỗ) Chiêu công năm thứ 7: “Dụng vật tinh đa, tắc hồn phách cường, thị dĩ hữu tinh sảng chí vu thần minh.” (tạm dịch: Dùng tinh của vật nhiều, thời hồn phách mạnh, là lấy tinh sảng đến mức thần minh.)
^Tư Mã Sư đã mất vào tháng giêng nhuận ÂL năm Chánh Nguyên thứ 2, nên “Đại tướng quân” ở đây là Tư Mã Chiêu
^Nguyên văn: 路不拾遗, 枹鼓不鸣/lộ bất thập di, phu cổ bất minh. 路不拾遗/lộ bất thập di, nghĩa là (người qua) đường (lộ) không nhặt (thập) của rơi (di), ý nói luật pháp nghiêm minh khiến dân chúng kiêng sợ nên chấp hành; nguồn gốc: Hàn Phi tử, Ngoại trữ thuyết tả thượng: “Quốc vô đạo tặc, đạo bất thập di.” (tạm dịch: Nước không có trộm cướp, đường không nhặt của rơi.) 枹鼓不鸣/phu cổ bất minh, nghĩa là dùi (phu) và trống (cổ) không phát ra tiếng (minh), ý nói không còn người phải đánh trống kêu oan; nguồn gốc: Hậu Hán thư, Khốc lại truyện, Đổng Tuyên: “(Đổng Tuyên) hậu đặc chinh vi Lạc Dương lệnh... do thị bác kích hào cường, mạc bất chấn lật, kinh sư hào vi ‘Ngọa hổ’. Ca chi viết: ‘Phu cổ bất minh, Đổng Thiếu Bình.’” (tạm dịch: ((Đổng Tuyên) sau đó đặc cách trưng làm Lạc Dương lệnh... do vậy đả kích cường hào, chẳng ai không run sợ, kinh sư đặt hiệu là ‘Cọp nằm’. Ca về ông rằng: ‘Trống dùi không kêu, Đổng Thiếu Bình.’ (Thiếu Bình là tên tự của Tuyên)).
^Nguyên văn: 天根/thiên căn, là cách gọi phiếm chỉ gót chân người trong Tinh tướng học.
^Dần ứng với hành Mộc. Nguyệt ứng với hành Thủy và quẻ Khảm. Thủy sanh Mộc, nhưng ở đây lại bị “thực”.
^Nguyên văn: 常数/thường số, nghĩa là quy luật hoặc phép tắc, thứ tự đã định trước. Ví dụ: Chiến quốc sách, Tần sách 3: “Nhật trung tắc di, nguyệt mãn tắc khuy, vật thịnh tắc suy, thiên chi thường sổ dã.” (tạm dịch: Mặt trời đứng thời tà, mặt trời tròn thời khuyết, vật thịnh thời suy, thường số của trời vậy.)
^Nguyên văn: 玄武藏头, 苍龙无足, 白虎衔尸, 硃雀悲哭/Huyền Vũ tàng đầu, Thương Long vô túc, Bạch Hổ hàm thi, Chu Tước bi khốc, nghĩa là Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc. Lễ ký, Khúc lễ thượng: “Hành: tiền Chu Điểu nhi hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long nhi hữu Bạch Hổ.” (tạm dịch: Theo đó: trước Chu Tước rồi sau Huyền Vũ, trái Thanh Long (Thương tức là Thanh, mùa thu – đông dùng chữ Thương, xuân – hạ dùng chữ Thanh) rồi phải Bạch Hổ.) Huyền Vũ tàng đầu là mặt sau có thế núi đứt gãy, tức long mạch đã tận, tục gọi là đất không nhận xác. Thương Long (hay Thanh Long) vô túc là mặt trái có thế núi dựng đứng, không có dốc thoải. Bạch Hổ ngậm thây là mặt phải có thế núi trập trùng, hiểm trở. Chu Tước thương khóc là mặt trước có dòng nước chảy xiết, khiến minh đường không thể tụ khí. Đời sau dựa vào nhận xét này của Quản Lộ để gọi 4 thế núi này là “tứ thế phá tổn” hay “tứ đại hung địa.”
^Nguyên văn: 无咎/vô cữu. Kinh Dịch, Hệ từ thượng: “Cát hung giả. Ngôn hồ kỳ thất đắc dã. Hối lận giả. Ngôn hồ kỳ tiểu tì dã. Vô cữu giả. Thiện bổ quá dã.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: “Cát, Hung: được, mất nói lên, đã rằng hối hận, ố hoen chút đành. Lỗi mà biết cải, biết canh, Thế thời Vô cữu, dở thành ra hay.” Và giải thích: “Dịch cho rằng làm lỗi không phải là 1 điều xấu, nếu sau đó chúng ta biết hối cải, tự tân. Biết hối lỗi, thì không lỗi nữa. Vì thế, nên gọi là Vô cữu.”)
^Luận Ngữ, Công Dã Tràng, 12: “Tử Cống viết: Phu Tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã. Phu Tử chi ngôn Tính dữ Thiên Đạo, bất khả đắc nhi văn dã.” (tạm dịch: Tử Cống nói: Văn chương của Phu tử thì nghe cả rồi, còn lời của Phu từ về tính và Đạo trời thì chưa từng nghe.)
^Tả truyện, (Lỗ) Chiêu công năm thứ 8: “Tích Nghiêu cức Cổn vu Vũ Sơn, kì thần hóa vi hoàng hùng, nhập vu Vũ Uyên, uyên đông hữu Vũ Sơn. Trì thượng đa sanh tế liễu, dã thú bất cảm tiễn.” (tạm dịch: Xưa Nghiêu xử tử Cổn ở núi Vũ, hồn ông ấy hóa làm gấu vàng, tiến vào vực Vũ, phía đông vực có núi Vũ. Trên ao có nhiều sanh vật nhỏ, dã thú không dám bước vào.)
^Sử ký, Lữ hậu bản kỷ kể rằng sau lễ tế tiêu tai cầu phúc, Lữ hậu trên đường về cung thì thấy quái vật có hình dáng chó xám (thương cẩu) xông vào dưới nách, rồi đột nhiên biến mất. Thầy bói nói rằng đó là Triệu vương Như Ý báo oán, vì thế Lữ hậu bị đau dưới nách, ít lâu sau thì mất.
^Nguyên văn: 黔喙之类/kiềm uế chi loại. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Thuyết quái: “Cấn vi kiềm uế chi thuộc.” (tạm dịch: Quẻ Cấn là giống mõm đen.) Khổng Dĩnh Đạt: “Thủ kì sơn cư chi thú dã.” (tạm dịch: Thú chọn sống trên núi đấy) Mã Dung: “Kiềm uế, nhục thực chi thú, vị sài lang chi chúc. Kiềm, hắc dã. Dương huyền tại tiền dã.” (tạm dịch: Kiềm uế, thú ăn thịt, ý nói giống dài lang. Kiềm, đen đấy. Chỗ đen tuyền ở phía trước đấy.)
^Quẻ trong Chu Dịch đều kèm với tượng – truyện, nhìn chung thuyết minh 1 quẻ gọi là Đại tượng, thuyết minh các hào trong quẻ ấy gọi là tiểu tượng.
^Nguyên văn: 表异/biểu dị, nghĩa là biểu hiện khác biệt với thói thường.
^Nguyên văn: 通灵/thông linh, nghĩa là giao tiếp (thông) với thần linh. Ví dụ: Ban Cố, U thông phú: “Tinh thông linh nhi cảm vật hề, thần động khí nhi nhập vi.”
^Chữ 鶂 còn được viết là 鷁/鹢. Thiều Chửu chép: “Nghịch là một giống chim ở nước, giống như con lô tư (鸬鹚) mà lông trắng, tài liệng không sợ gió.” Ở đây chim nghịch bay lui được cho là điềm gở, Đỗ Dự chú giải Tả truyện, cho biết: “Nghịch, giống chim nước. Bay cao gặp gió thì lui. Người Tống cho là tai, báo với chư hầu, theo sách xưa.”
^Con gái của Lỗ Tuyên công là Bá cơ được gả cho Tống Cung công. Gặp lúc cung thất phát hỏa, hạ nhân muốn đưa Bá cơ đi tránh nạn, Bá cơ từ chối: “Tôi nghe nói đàn bà muốn ra ngoài ban đêm, nếu không gặp phó mẫu thì không rời nhà.” Vì thế Bá cơ chịu chết cháy, được đặt thụy là Tống Cung cơ.
^Kinh Xuân Thu, (Lỗ) Chiêu công năm thứ 18: “Hạ, ngũ nguyệt, nhâm ngọ, Tống, Vệ, Trần, Trịnh, tai.”
^Nguyên văn: 融风/dung phong, nghĩa là gió đông bắc. Tả truyện, (Lỗ) Chiêu công năm thứ 18: “Bính tý, phong. Tử Thận viết: ‘Thị vị dung phong, hỏa chi thủy dã.’” (tạm dịch: Bính tý, gió. Tử Thận nói: ‘Đây là dung phong, gốc của hỏa đấy.’) Đỗ Dự chua: “Đông bắc viết dung phong. Dung phong, mộc dã. Mộc, hỏa mẫu, cố viết hỏa chi thủy.” Gió đông bắc gọi là dung phong. Dung phong, mộc đấy. Mộc là mẹ của hỏa, nên gọi là gốc của hỏa.) Khổng Dĩnh Đạt giải: “Đông bắc viết dung phong. ‘Dịch vĩ’ tác điều phong, câu thị đông bắc phong. Nhất phong hữu nhị danh. Đông bắc, mộc chi thủy, cố dung phong vi mộc dã. Mộc thị hỏa chi mẫu, hỏa đắc phong nhi thịnh, cố dung vi hỏa chi thủy.” (tạm dịch: Gió đông bắc gọi là dung phong. Dịch vĩ làm Điều phong, đều gọi là gió đông bắc. 1 gió có 2 tên. Đông bắc là gốc của mộc, nên dung phong là mộc đấy. Mộc là mẹ của hỏa, hỏa được gió nên thịnh, nên dung là gốc của hỏa.)
^Nguyên văn: 赤鸟夹日/xích điểu giáp nhật. Xích điểu (chim đỏ) là mây khói màu đỏ tụ thành hình dáng loài chim. Nguồn gốc: Tả truyện, (Lỗ) Ai công năm thứ 6: “Thị tuế dã, hữu vân như chúng xích điểu, giáp nhật dĩ phi tam nhật.” (tạm dịch: Năm ấy, có mây nhiều như chim đỏ, ở cạnh mặt trời mà bay trong 3 ngày.) Sử ký, Sở thế gia kể rằng Sở Chiêu vương hỏi Chu thái sử, thái sử đáp rằng đấy là điềm có tai vạ giáng xuống Chiêu vương, đề nghị cúng tế để chuyển tai vạ sang các đại thần, Chiêu vương không nghe. Sau đó Chiêu vương bệnh, bói được là bởi thần sông Hà ám, các quan xin cúng tế thần sông Hà, Chiêu vương cho rằng mình không có lỗi gì với thần ở sông Hà, nên không chịu. Khổng tử khen Chiêu vương hiểu được đại đạo, nên khi xưa thua quân Ngô mà không mất nước. Năm ấy, Chiêu vương mất.
^Nguyên văn: 明符/minh phù. Minh phù được viết trên giấy, dùng để dán tường, đốt lấy tro, giấu trong áo,... Ám phù được viết trong lòng bàn tay, viết trong hư không,... chỉ dùng ngay lúc làm phép rồi thôi.
^Tả truyện, (Lỗ) Hi công năm thứ 29 kể rằng Giới quốc quân Cát Lô 2 lần vào mùa xuân, đông đến nước Lỗ, được Hi công tiếp đãi trọng thể. Cát Lô nghe tiếng bò kêu, đoán rằng bò cái sẽ sanh 3 con hi, quả nhiên như vậy. (牺/hi là con nghé thuần sắc, được chọn cho việc cúng tế)
^Nguyên văn: 典谟/điển mô. Có 3 nghĩa: 1, tên gọi chung của các thiên Nghiêu điển, Thuấn điển, Hạ Vũ mô, Cao Đào mô,... của kinh Thư. 2, phiếm chỉ kinh Thư. 3, phiếm chỉ kinh điển nói chung.
^Sử ký, Ân bản kỷ kể rằng phi tử của Đế Khốc là Giản Địch nuốt trứng chim én mà sanh ra tổ tiên của nhà Thương là Tiết. Kinh Thi có câu: “Thiên mệnh huyền điểu, giáng sinh nhi Thương” chính là nói đến huyền sự này.
^Nguyên văn: 丹鸟衔书/đan điểu hàm thư, nghĩa là chim đỏ ngậm sách. Nguồn gốc: Thượng thư, Trung hậu: “Chu Văn vương vi Tây bá, quý thu chi nguyệt giáp tử, xích tước hàm đan thư nhập Phong, chỉ vu Xương hộ. Nãi bái, kê thủ thụ thủ. Viết: ‘Cơ Xương, Thương đế tử; vong ân giả, Trụ dã.” (tạm dịch: Chu Văn vương làm Tây bá, ngày giáp tý tháng cuối mùa thu, sẻ đỏ ngậm sách son vào đất Phong, dừng ở phòng của Xương. Bèn vái, dập đầu nhận lấy. Nói: “Cơ Xương, con của Thương đế (vị thần cai quản phương đông); kẻ quên ơn, Trụ đấy.)
^Thuần Hỏa là 1 trong 12 tinh thứ của Thiên văn học cổ đại Trung Quốc. Thời Ân – Thương, 12 tinh thứ bao gồm Tinh Kỉ, Huyền Hiêu, Thư Tí, Hàng Lâu, Đại Lương, Thật Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, tương đối giống 12 cung hoàng đạo ở phương tây. Tinh thứ Thuần Hỏa gần tương ứng với cung Sư Tử.
^Nguyên văn: 八神/bát thần. Có 3 nghĩa: 1, Thần ở 8 phương. 2, 8 vị thần được cúng tế trong lễ tất niên đời Chu – Tần, quen gọi là 八蜡/bát chá: Tiên Sắc, Ti Sắc, Nông, Bưu Biểu Chuyết, Miêu Hổ, Phường, Thủy Dung, Côn Trùng. 3, 8 vị thần ở cúng tế ở Thái miếu: Thiên chúa Thiên Tề, Địa chúa Thái Sơn Lương Phụ, Binh chúa Xi Vưu, Âm chúa Tam Sơn, Dương chúa Chi Phù, Nguyệt chúa Chi Lai Sơn, Nhật chúa Thành Sơn, Thì chúa Lang Da.
^Luận Ngữ, Tiên tiến: “(Tử Lộ) Viết: ‘Cảm vấn tử.’ (Tử) Viết: ‘Vị tri sinh, yên tri tử?’” (Phùng Hoài Ngọc dịch: Tử Lộ hỏi: ‘Con xin hỏi về đạo lý của sự chết?’ Khổng tử nói: ‘Chưa biết đạo lý sự sống, sao biết được đạo lý của sự chết.)’
^Đại học tương đương với bậc tiểu học ngày nay, mang tính phổ cập giáo dục. Hán thư, Lễ nhạc chí: “Bậc vương giả đời xưa chẳng ai không lấy giáo hóa làm việc lớn, lập Đại học để dạy người trong nước, đặt trường học để dạy dỗ từ cấp huyện.”
^Tử Thận (梓慎) là đại phu nước Lỗ thời Xuân Thu, học giả theo học thuyết Âm dương (Âm dương gia), hoạt động vào đời Lỗ Tương công, Lỗ Chiêu công.
^Nguyên văn: 潜阳/tiềm dương, là thuật ngữ trong phép trị liệu của Đông y. Bình can tiềm dương là phương pháp trị liệu chứng can dương thượng cang, mục đích là làm cho dương khí tiềm tàng ở dưới không bốc lên trên.
^Nguyên văn: 量虽温克/lượng tuy ôn khắc; tạm dịch: tửu lượng dẫu ôn (cất, giấu) khắc (hay, được). Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Tiểu uyển: “Nhân chi tề thánh, ẩm tửu ôn khắc.” (tạm dịch: Người so với thánh, chỉ có uống rượu mà ôn khắc.) Trịnh Huyền đoán: “Trung chánh thông tri chi nhân, ẩm tửu tuy túy do năng ôn tạ tự trì dĩ thắng.” (tạm dịch: Người ngay thẳng hiểu biết, uống rượu dẫu say nhưng vẫn có thể xếp chiếu (ôn tạ) tự đứng dậy (tự trì) là được.)
^Nguyên văn: 水镜之才/thủy kính chi tài, phiếm chỉ khả năng hiểu biết tất cả mọi chuyện trên đời. Đương thời Tư Mã Huy nhờ vậy mà có hiệu là Thủy Kính.
^Nguyên văn: 云汉/Vân Hán, phiếm chỉ Ngân Hà hay Thiên Hà. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Đại nhã, Vực phác: “Trác bỉ Vân Hán, vi chương vu thiên.” (tạm dịch: Vân Hán lớn lao kia, làm thành dải trên trời) Mao Thi giải thích: “Vân Hán, là Thiên Hà đấy.”
^Nguyên văn: 经国才略/kinh quốc tài lược. Theo Trần Văn Chánh, tài lược nghĩa là thông minh khôn khéo, minh mẫn; theo Nguyễn Quốc Hùng, kinh quốc nghĩa là sắp đặt việc nước.
^Nguyên văn: 物理/vật lý, nghĩa là đạo lý của sự vật.
^Nguyên văn: 神明/thần minh, nghĩa là hiểu biết, sáng suốt như thần. Ví dụ: Hán thư quyển 100, Tự truyện thượng: “Cập tha ẩn phục, tuần nhật sổ đắc. Quận trung chấn lật, hàm xưng thần minh.” (tạm dịch: Đến khi họ ẩn núp, nội tuần mấy lần bắt được. Người trong quận run sợ, đều gọi là thần minh.)
^Nguyên văn: 精微/tinh vi, nghĩa là tinh thâm vi diệu. Nguồn gốc: Lễ ký, Trung dung: “Trí quảng đại nhi tận tinh vi, cực cao minh nhi đạo trung dung.” (tạm dịch: Rất rộng lớn mà đều tinh vi, cực cao minh mà đạo trung dung.)
^Nguyên văn: 攻难/công nan, nghĩa là chất vấn những vấn đề còn nghi ngờ. Ví dụ: Lưu Nghĩa Khánh – Thế thuyết tân ngữ, Văn học: “Bùi Thành công tác ‘Sùng hữu luận’, thì nhân công nan chi, mạc năng chiết.” (tạm dịch: Bùi Thành công (tức Bùi Ngỗi, con Bùi Tú) làm ‘Sùng hữu luận’, người đương thời công nan ông ấy, chẳng ai có thể bẻ gãy.)
^Nguyên văn: 入神/nhập thần, ý nói sự hứng thú cao độ, tập trung chú ý cực kỳ nồng nhiệt vào một sự vật ở trước mắt. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ hạ: “Tinh nghĩa nhập thần, dĩ trí dụng dã.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Học sao, tinh nghĩa nhập thần; rồi ra áp dụng, muôn phần hay ho.) Khổng Dĩnh Đạt chua: “Ngôn thánh nhân dụng tinh hoa vi diệu chi nghĩa, nhập vu thần hóa, tịch nhiên bất động, nãi năng trí kì sở dụng.” (tạm dịch: Nói thánh nhân dùng cái nghĩa tinh hoa vi diệu, như được thần minh dạy dỗ, rồi có thể đem ra sử dụng.) Ngày nay nhập thần và xuất thần đều được dùng để chỉ một kỹ năng đạt đến trình độ thần kỳ.
^Nguyên văn: 天元/thiên nguyên, nghĩa là nguyên lý vận hành của tuế thời (4 mùa).
^Nguyên văn: 差次/sai thứ, ý nói phân biệt đẳng cấp, thứ tự. Ví dụ: Hán thư, Cao hậu kỷ: “Kim dục soa thứ liệt hầu công, dĩ định triều vị.” (tạm dịch: Nay muốn sai thứ công của liệt hầu, để định vị trí chầu.) Nhan Sư Cổ chua: “Lấy cao thấp của công làm thứ của trước sau.”
^Nguyên văn: 微辨/vi biện, nghĩa là nói bóng, nói mát một cách vừa kín đáo vừa uyển chuyển. Nguồn gốc: Lễ ký, Nho hành: “Kỳ quá thất khả vi biện, nhi bất khả diện sổ dã.” (tạm dịch: Lỗi lầm ấy có thể nói tránh, nhưng không thể đối mặt đấy.)
^Nguyên văn: 射侯/xạ hầu. Xạ nghĩa là bắn, Hầu là tấm bia làm bằng da thú hoặc vải dầy.
^Nguyên văn: 清谈/thanh đàm, nghĩa là bàn suông. Thanh đàm là trào lưu của giới nho sĩ, thịnh hành vào đời Ngụy Tấn, chủ trương không nhắc thế tục, không hỏi dân sanh, chủ yếu lập luận Lão, Trang, nói về những chuyện huyền bí, thường bàn đến 3 bộ sách Chu Dịch, Lão tử, Trang tử, gọi là “tam huyền”.
^Nguyên văn: 寻声/tầm (tìm) thanh (tiếng), nghĩa là nhất nhất đáp lại, ý nói hành vi nhanh chóng lên tiếng đáp lại ngay khi tiếng hỏi vừa dứt. Nguồn gốc: Tam quốc chí, Hạ Hầu Huyền truyện: “Lệnh phát chi nhật, hạ chi ứng dã, do hưởng tầm thanh nhĩ.” (tạm dịch: Lệnh phát trong ngày, người dưới ứng theo, do vang tầm thanh đấy.)
^Nguyên văn: 要言不烦/yếu ngôn bất phiền. Chữ 烦/phiền ý nói nhiều (繁/phồn) và vụn vặt (琐/tỏa).
^Nguyên văn: 称引鑑戒/xưng dẫn giám giới. Xưng dẫn ý nói trình bày có dẫn chứng cụ thể; nguồn gốc: Sử ký, Mạnh tửTuân Khanh liệt truyện: “Xưng dẫn thiên địa phẩu phán dĩ lai, ngũ đức chuyển di, trì các hữu nghi, nhi phù ứng nhược tư.” (tạm dịch: (Trâu Diễn) nói từ khi trời đất mở mang đến nay, năm đức đổi dời, chính trị mỗi thời mỗi khác nhưng đều phù hợp với sự đổi dời ấy.) Giám giới ý nói mượn sự vật để khuyên răn, nguồn gốc: Quốc ngữ, Sở ngữ hạ: “Nhân chi cầu đa văn thiện bại, dĩ giám giới dã.” (tạm dịch: Người ta muốn nghe nhiều chuyện được – thua, để giám giới vậy.)
^Nguyên văn: 交疏/giao sơ, tức 交情疏浅/giao tình sơ thiển, ý nói mới quen biết, quan hệ còn chưa sâu sắc. Nguồn gốc: Chiến quốc sách, Tần sách 3: “Thần văn thủy thì Lữ Thượng chi ngộ Văn vương dã, thân vi ngư phụ nhi điếu vu Vị Dương chi tân nhĩ, nhược thị giả giao sơ dã.” (tạm dịch: Thần nghe nói ban đầu Lữ Thượng gặp Văn vương, tự làm người câu cá ở bến đò Vị Dương, như thế mới giao sơ đấy.)
^Nguyên văn: 明德惟馨/minh đức duy hinh. Nguồn gốc: Thượng thư, Quân trần: “Thử tắc phi hinh, minh đức duy hinh.” (tạm dịch: Lúa nếp, cao lương không thơm, chỉ đức hạnh mới thơm.)
^Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Ngư tảo chi thập, Thấp tang 4: “Tâm hồ ái hĩ, hà bất vị hĩ? Trung tâm tàng chi, hà nhật vong chi?” (Tạ Quang Phát dịch: Lòng đã yêu quý người quân tử, mà sao lại chẳng thốt ra cho người biết? Lại cứ giấu mãi trong lòng, thì biết ngày nào mới quên được!)
^Nguyên văn: 游精/du (dạo chơi) tinh (tinh thần), phiếm chỉ trạng thái lan man, không tập trung. Ví dụ: Hậu Hán thư, Phùng Diễn truyện hạ: “Thượng Lũng phản, trắc cao cương, du tinh vũ trụ, lưu mục bát hoành.” (Lên sườn Lũng, trèo gò cao, du tinh vũ trụ, rảo mắt bát hoành.)
^Nguyên văn: 突出/độc xuất, tức 独自外出/độc tự ngoại xuất, nghĩa là một mình bước ra. Nguồn gốc: Liệt tử, Lực mệnh: “Độc vãng độc lai, độc xuất độc nhập, thục năng ngại chi?” (tạm dịch: Một mình đi, một mình đến, một mình ra, một mình vào, còn trở ngại gì?)
^Nguyên văn: 来论/lai luận, tức 来稿议论/lai cảo (mới vừa viết ra) nghị luận, nghĩa là lời bàn mới vừa nói ra, chưa thể kiểm chứng.
^Nguyên văn: 吸习/hấp (hút vào) tập (học đi học lại, ở đây nghĩa là thường xuyên), phiếm chỉ hành vi phụ họa, hùa theo.
^Nguyên văn: 不了/bất liễu, nghĩa là không hiểu được, không rõ ràng. Ví dụ: Đỗ Dự chua chi tiết “Quách Công” ở kinh Xuân Thu, (Lỗ) Trang công năm thứ 2 rằng: “Tự Tào Ki dĩ hạ, ‘Công Dương’, ‘Cốc Lương’ chi thuyết kí bất liễu, hựu bất thông chi vu Tả thị, cố bất thải dụng.” (tạm dịch: Từ Tào Ki trở xuống, Công Dương truyện, Cốc Lương truyện nói bất liễu, lại không hợp với Tả truyện, nên không sử dụng.)
^Nguyên văn: 清言/thanh ngôn, nghĩa là lời bàn luận cao nhã. Ví dụ: Đào Tiềm, Vịnh nhị sơ: “Vấn kim chung kí tâm, thanh ngôn hiểu vị ngộ.” (tạm dịch: Nghe tiếng thanh la ghi trọn vào lòng, thanh ngôn sớm chưa tỏ.) Thanh ngôn còn là cách gọi khác của trào lưu Thanh đàm.
^Nguyên văn: 四岳/tứ Nhạc. Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Đại nhã, Tung cao: “Tung cao duy nhạc.” Mao Thi: “Nhạc, tứ nhạc dã. Đông nhạc, Thái; nam nhạc, Hành; tây nhạc, Hoa; bắc nhạc, Hằng.”
^Nguyên văn: 离硃 hay 离朱/Li Chu, quen gọi 离娄/Li Lâu, là người nổi tiếng vì tinh mắt, sống vào thời Hoàng Đế, có thể nhìn thấy sợi lông ngoài trăm bước chân.
^Nguyên văn: 三五盈月/tam ngũ doanh nguyệt. Tam ngũ chỉ ngày 15; nguồn gốc: Lễ ký, Lễ vận: “Thị dĩ tam ngũ nhi doanh, tam ngũ nhi khuyết.” (tạm dịch: Ấy lấy tam ngũ mà đầy, tam ngũ mà khuyết.)
^Nguyên văn: 杜伯乘火气以流精/Đỗ Bá thừa hỏa khí dĩ lưu tinh. Đỗ Bá là đại thần nhà Chu, thủy tổ của họ Phạm trong lịch sử Trung Quốc; Trương Thủ Tiết (nhà Đường) – Sử ký chánh nghĩa dẫn kinh Xuân Thu: “Tuyên vương sát Đỗ Bá nhi vô cô, hậu tam niên, Tuyên vương hội chư hầu điền vu phố, nhật trung, Đỗ Bá khởi vu đạo tả, y chu y quan, thao chu cung thỉ, xạ Tuyên vương, trung tâm chiết tích nhi tử.” (tạm dịch: (Chu) Tuyên vương giết Đỗ Bá mà vô cớ, sau 3 năm, Tuyên vương hội chư hầu săn bắn ở vườn rau, giữa ban ngày, Đỗ Bá xuất hiện bên đường, mặc áo đỏ mũ đỏ, cầm cung đỏ tên đỏ, bắn Tuyên vương, trúng tim gãy xương sống mà chết.) Hỏa khí ý nói sự giận dữ (nộ khí), cũng liên quan đến màu đỏ của hành Hỏa.
^Nguyên văn: 彭生讬水变以立形/Bành Sinh thác thủy biến dĩ lập hình. Công tử Bành Sinh là quan Đại phu của nước Tề thời Xuân Thu. Năm 694 TCN, Tề Tương công ngầm sai công tử Bành Sinh sát hại Lỗ Hoàn công, sau đó giết chết Bành Sinh để bịt miệng (xem Tả truyện, (Lỗ) Hoàn công năm thứ 18). Năm 686 TCN, Tương công đi săn, gặp 1 con lợn lớn, có người nói đấy là công tử Bành Sinh. Tương công cả giận, giương cung muốn bắn, con lợn đứng yên mà kêu khóc, khiến Tương công sợ hãi, ngã khỏi xe, rơi mất giày. Đêm hôm ấy, tướng Tề là bọn Liên Xưng và Quản Chí Phụ nổi loạn. Tương công nấp sau cửa, để lộ bàn chân không có giày, bọn Xưng nhận ra, lập tức đâm chết ông ta (xem Tả truyện, (Lỗ) Trang công năm thứ 8). Chu Dịch chánh nghĩa Thuyết quái quyển 9, tiết 8: Độc tiết: “Càn vi mã. Khôn vi ngưu. Chấn vi long. Tốn vi kê. Khảm vi thỉ. Ly vi trĩ. Cấn vi cẩu. Đoài vi dương.” (tạm dịch: Càn là ngựa, Khôn là trâu, Chấn là rồng, Tốn là gà, Khảm là lợn, Ly là trĩ, Cấn là chó, Đoài là dê.) Khổng Dĩnh Đạt giải thích: “Thử nhất tiết thuyết bát quái súc thú chi tượng, lược minh viễn thủ chư vật dã. Càn tượng thiên, thiên hành kiện, cố vi mã dã. Khôn tượng địa, nhâm trọng nhi thuận, cố vi ngưu dã. Chấn, động tượng, long, động vật, cố vi long dã. Tốn chủ hiệu lệnh, kê năng tri thì, cố vi kê dã. Khảm chủ thủy độc, thỉ xử ô thấp, cố vi thỉ dã. Ly vi văn minh, trĩ hữu văn chương, cố vi trĩ dã. Cấn vi tĩnh chỉ, cẩu năng thiện thủ, cấm chỉ ngoại nhân, cố vi cẩu dã. Đoài, thuyết dã. Vương Dị vân: ‘Dương giả, thuận chi súc, cố vi dương dã.’” (tạm dịch: Tiết này nói Bát quái chứa tượng của thú, lấy sâu sắc chọn các loài vật. Càn tượng trời, trời dịch chuyển mạnh mẽ, nên là ngựa đấy. Khôn tượng đất, gánh nặng mà thuận, nên là trâu đấy. Chấn là tượng của hành động, rồng là vật của hành động, nên là rồng đấy. Tốn chuyên chủ hiệu lệnh, gà biết giờ giấc, nên là gà đấy. Khảm chuyên chủ ngòi nước, lợn ở nơi ẩm bẩn, nên lợn đấy. Ly là văn minh, trĩ có văn chương, nên là trĩ đấy. Cấn là tĩnh lặng, chó có thể giữ nhà, ngăn chặn người ngoài, nên là chó đấy. Đoài, như Vương Dị nói: ‘Dê là giống nhu thuận, nên là dê.’) Thủy biến ý nói hóa làm lợn vậy.
^Nguyên văn: 陵虚之鸟/lăng hư chi điểu. Lăng hư nghĩa là bay lượn trên không trung. Ví dụ: Phan Nhạc (nhà Tấn) – Quả phụ phú: “Như thiệp xuyên hề vô lương, nhược lăng hư hề thất dực.” (tạm dịch: Như qua sông hề không cầu, bằng lăng hư hề mất cánh.)
^Nguyên văn: 正身/chánh thân, ý nói sửa mình (tu thân). Nguồn gốc: Tuân tử, Pháp hành: “Quân tử chánh thân dĩ sĩ, dục lai giả bất cự, dục khứ giả bất chỉ.” (tạm dịch: Quân tử chánh thân để đứng đợi, người muốn đến không từ chối, người muốn đi không ngăn cản.)
^Nguyên văn: 明道/minh đạo, nghĩa là hiểu rõ đạo lý. Ví dụ: Hán thư quyển 56, Đổng Trọng Thư truyện: “Chánh kì nghị bất mưu kì lợi, minh kì đạo bất kế kì công” (tạm dịch: Giữ nghĩa ấy không mưu lợi ấy, rõ đạo ấy không tính công ấy.)
^Nguyên văn: 研几/nghiên kỷ, có sách chép là 研机/nghiên ky, ý nói sự nghiên cứu lý luận đến mức cùng cực, tinh vi trên lãnh vực triết học. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ thượng: “Phu Dịch, thánh nhân chi sở dĩ cực thâm nhi nghiên kỷ dã.” (Nguyễn Hiến Lê dịch: Thánh nhân nhờ Dịch mà biết được sâu và xét được tinh vi (từ khi sự việc mới manh nha).)
^Nguyên văn: 孳孳/tư tư, ý nói siêng năng gắng gỏi (cần miễn). Nguồn gốc: Lễ ký, Biểu ký: “Phủ yên nhật hữu tư tư, tễ nhi hậu dĩ.” (tạm dịch: Cúi sao hàng ngày có vẻ tư tư, sấp mặt mà đi sau thôi.) Trần Hạo tập thuyết (:zh:陈澔集说): “Tư tư, cần miễn chi mạo.” (tạm dịch: Tư tư, dáng vẻ siêng năng gắng gỏi.)
^Nguyên văn: 素隐行怪/tố ẩn hành quái. Nguồn gốc: Lễ ký, Trung dung: “Tố ẩn hành quái, hậu thế hữu thuật yên, ngô phất vi chi hĩ.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Đức Khổng nói: “Tìm bí ẩn làm điều quái dị, cốt mong cho hậu thế ngợi khen, (xá chi chuyện ấy nhỏ nhen) đã là quân tử chẳng thèm quan tâm.)
^Nguyên văn: 清和/thanh hòa, ý nói tính cách thanh tĩnh và hòa bình. Ví dụ: Thế thuyết tân ngữ, Ngôn ngữ: “Tuân trung lang tại Kinh Khẩu, thanh hòa hữu thức tài.” (Tuân trung lang (tức Tuân Tiện, cháu 5 đời của Tuân Úc) ở Kinh Khẩu, thanh hòa có kiến thức.)
^Nguyên văn: 思理/tư lý, nghĩa là có năng lực suy nghĩ (tư) và phân tích (biện). Ví dụ: Thế thuyết tân ngữ, Phẩm tảo: “Dữu Đạo Quý vân: ‘Tư lý luân hòa, ngô quý Khang Bá,...’...” (tạm dịch: Dữu Đạo Quý (tức Dữu Hòa, con Dữu Lượng) nói: ‘Tư lý ngành thớ, tôi thẹn với Khang Bá (tức Hàn Bá, tự Khang Bá, quen gọi tên tự; Tấn thư, Hàn Bá truyện chép tính cách của Hàn Bá cũng chính là ý này ‘thanh hòa hữu tư lý’).’)
^Nguyên văn: 不世之神/bất thế chi thần. Bất thế ý nói phi thường và hiếm có. Nguồn gốc: Hậu Hán thư, Ngỗi Hiêu truyện: “Túc hạ tương kiến Y, Lữ chi nghiệp, hoằng bất thế chi công.” (tạm dịch: Anh sắp dựng sự nghiệp của Y (Doãn), Lữ (Thượng), mở công lao bất thế.) Lý Hiền chua: “Bất thế giả, ngôn phi đại chi sở thường hữu dã.” (Bất thế ấy, nói chẳng phải thường có trên đời đấy.)
^Nguyên văn: 登时/đăng thì, hình dung sự vật phát triển nhanh chóng, ý nói lập tức, đương thời. Ví dụ: Cát Hồng (nhà Tấn) – Bão phác tử, Thích trệ: “Hựu trung ác cấp tật, đãn thôn tam cửu chi khí, diệc đăng thì soa dã.” (tạm dịch: Còn trúng tật ác cấp, chỉ nuốt hơi tam cửu, cũng đăng thì bớt đấy.)
^Nguyên văn: 安处/an (yên ổn) xử (đặt để). Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Tiểu minh: “Ta nhĩ quân tử, vô hằng an xử.” (tạm dịch: Ôi anh là quân tử, không yên ổn mãi.)
^Kinh Dịch, quẻ Thuần Càn, Thoán truyện: “Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Lớn thay là cái gốc trời! làm cho vạn vật, vạn loài sinh sôi. Kiền nguyên tóm hết Đạo Trời; tóm thâu Thiên Đạo, khúc nhôi sinh thành.)
^Nguyên văn: 开廓/khai (mở ra) khuếch (mở rộng ra), nghĩa là khai thác và khuếch trương. Nguồn gốc: Ban Cố – Bạch hổ thông, Băng hoăng: “Quách chi vi ngôn khuếch, sở dĩ khai khuếch tích thổ, vô lệnh bách quan dã.” (tạm dịch: Cái quách chưng vì lời nói mở rộng, bởi thế khai khuếch đất vua, không khiến trăm quan vậy.)
^Nguyên văn: 用思勤苦/dụng tư cần khổ. (Dụng tư xem ở trên) Cần khổ tức là cần lao khắc khổ.
^Nguyên văn: 历载/lịch (trải qua) tải (năm), tức là trải qua nhiều năm (kinh lịch đa niên).
^Nguyên văn: 靡宁/mỹ ninh. 靡/mỹ nghĩa là không có (vô); 宁/ninh nghĩa là bình an; mỹ ninh nghĩa là bất an.
^Nguyên văn: 相得/tương đắc, nghĩa là tướng xứng và hòa hợp, ý hợp tâm đầu. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ thượng: “Thiên số ngũ, địa sổ ngũ, ngũ vị tương đắc, nhi các hữu hợp.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê: Số Trời, số Đất đều năm; năm ngôi tương đắc, đối đăng, hòa hài.) Hàn Khang Bá chua: “Thiên địa chi số các ngũ, ngũ số tương phối, dĩ hợp thành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.” (tạm dịch: Số của trời đất đều là 5, 5 số phối với nhau, để hợp nên kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.)
^Nguyên văn: 至论/chí luận, nghĩa là lý luận vừa chính xác vừa cao siêu. Ví dụ: Hoài Nam tử, Tinh thần huấn: “Tàng Thi, Thư, tu văn học, nhi bất tri chí luận chi chỉ, tắc phụ bồn khấu linh chi đồ dã.” (tạm dịch: Chứa kinh Thi, kinh Thư, sửa văn học, mà không biết ý chỉ của chí luận, thời là bọn vỗ chậu gõ máng đấy.”)
^Nguyên văn: 雅言/nhã ngôn, tức là chánh ngôn. Ví dụ: Gia Cát Lượng, Xuất sư biểu: “Bệ hạ diệc nghi tự khóa, dĩ tư tưu thiện đạo, sát nạp nhã ngôn.” (tạm dịch: Bệ hạ cũng nên tự tính, để mưu cầu đạo lành, xét nạp nhã ngôn.)
^Nguyên văn: 灵蓍/linh (linh trong thần linh) thi (cỏ thi), ý nói bói bằng cỏ thi. Nguồn gốc: Quỷ Cốc tử, Bổn kinh âm phù: “Tổn đoái pháp linh thi.” (tạm dịch: Bớt đổi phép để linh thi.)
^Nguyên văn: 二仪/nhị nghi, tức lưỡng nghi. Định nghĩa về Lưỡng nghi có 8 thuyết: thiên địa, kỳ (lạ) ngẫu (chợt), cương nhu, huyền hoàng, càn khôn, xuân thu, bất biến và biến, âm dương; trong đó âm dương là phổ biến nhất. Nhưng phần còn lại của câu này nhắc đến âm dương, nên có thể loại bỏ thuyết này.
^Nguyên văn: 豪纤/hào tiêm. Hào và tiêm đều có nghĩa là nhỏ (hoặc rất nhỏ).
^Nguyên văn: 纤微/tiêm vi. Tiêm và vi đều có nghĩa là nhỏ.
^Nguyên văn: 变怪/biến quái, tức là tai biến quái dị. Ví dụ: Hán thư, Trương Sưởng truyện: “Nguyệt thiểm nhật thực, trú minh tiêu quang, địa đại chấn liệt, hỏa sanh địa trung, thiên văn thất độ, yêu tường biến quái, bất khả thắng kí.” (tạm dịch: Trời mọc hướng tây, ngày tối đêm sáng, đất chấn động mạnh, lửa sanh từ đất, thiên văn mất phép, điềm lạ biến quái, không thể chép xuể.)
^Nguyên văn: 明府/minh phủ, là cách gọi tôn trọng (tôn xưng) dành cho quan Thái thú đời Hán. Ví dụ: Hậu Hán thư, quyển 27, Trương Trạm truyện: “Minh phủ vị tôn đức trọng, bất nghi tự khinh.” (tạm dịch: Minh phủ vị tôn đức trọng, không nên tự xem nhẹ.)
^Nguyên văn: 自天祐之/tự thiên hữu chi. Nguốn gốc: Kinh Dịch, quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu, Hào từ, Thượng cửu: “Tự thiên hữu chi, cát, vô bất lợi.” (tạm dịch: tự được trời giúp, lành, chẳng có gì mà không lợi.) Nguyễn Hiến Lê cho biết: “Phan Bội Châu nhận xét rằng trong 64 quẻ, không quẻ nào tốt đều như quẻ này: hào 1, 2, 3 đều không có lỗi, hào 4 được hanh thông, hào 5 tốt, hào 6 đã tốt hơn nữa, “không có gì mà chẳng lợi”. Ngay đến quẻ Càn, quẻ Thái hào cuối cùng cũng xấu, kém quẻ này. Đại Hữu chính là thời thịnh trị sau thời Đại Đồng.”
^Nguyên văn: 百禄/bách lộc, ý nói nhiều phúc (đa phúc). Nguồn gốc: Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Lộc minh chi thập, Thiên bảo: “Thiên bảo định nhĩ, tỉ nhĩ tiển cốc. Khánh vô bất nghi, thụ thiên bách lộc. Giáng nhĩ hà phúc, duy nhật bất túc.” (Nhân Tử Nguyên Văn Thọ dịch: Xin trời phù hộ đêm ngày, cho người mọi sự mọi hay mới là. Cho người mọi sự mọi ưa, cho người phúc lộc dư thừa chứa chan. Cho người hạnh phúc muôn vàn, cho người ngày tháng đầy tràn thiên ân.)
^Nguyên văn: 伯有之魂/Bá Hữu chi hồn, nghĩa đen là hồn của Bá Hữu. Bá Hữu là tên tự của Khanh đại phu Lương Tiêu nước Trịnh thời Xuân Thu. Lương Tiêu tranh chấp quyền chánh với Tứ Đái, thua trận bị giết ở chợ buôn dê. Tương truyền Lương Tiêu hóa thành lệ quỷ tác quái, người Trịnh sợ hãi, bảo nhau “Bá Hữu đến rồi.” (xem Tả truyện (Lỗ) Tương công năm thứ 30, (Lỗ) Chiêu công năm thứ 7) Đời sau dùng “Bá Hữu” để nói về hồn người bị hàm oan mà chết.
^Nguyên văn: 干犯明灵/can phạm minh linh. Can phạm nghĩa là can nhiễu xâm phạm, ý nói xúc phạm; nguồn gốc: Hậu Hán thư, Sử Bật truyện: “Can phạm chí thích, tội bất dung tru.” (tạm dịch: Can phạm đến quý thích, tội không tha chết.) Minh linh tức thần linh sáng suốt (thánh minh đích thần linh); nguồn gốc: Dương Hùng – Triệu Sung Quốc tụng: “Minh linh duy Tuyên, Nhung hữu Tiên Linh.” (tạm dịch: Minh linh chỉ có Tuyên, rợ Nhung có Tiên Linh Khương.) Lý Chu Hàn chua: “Thánh minh thần linh, duy ngã Tuyên Đế.” (tạm dịch: Như thần linh sáng suốt, chỉ có (Hán) Tuyên đế của chúng ta.)
^Kinh Dịch, quẻ Sơn Thiên Đại Súc, Thoán truyện: Đại Súc. Cương kiện. Đốc thật huy quang. Nhật tân kỳ đức. Cương thượng nhi thượng hiền. (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Thoán rằng: Dũng mãnh, cương kiên; trong thời hàm súc, ngoài thêm huy hoàng. Đức hành, ngày một sửa sang; hiền lương một dạ nể nang, tôn vì.)
^Nguyên văn: 龙动则景云起,虎啸则谷风至/long động tắc cảnh vân khởi, hổ khiếu tắc cốc phong chí; nguồn gốc: Hoài Nam tử, Thiên văn huấn: “Hổ khiếu nhi cốc phong sanh, long cử nhi cảnh vân chúc.” Cảnh vân tức là mây lành (thụy vân); ví dụ: Ứng Trinh – Tấn Vũ đế Hoa Lâm viên tập thi: “Phượng minh triêu dương, long tường cảnh vân.” (tạm dịch: Phương hót buổi sớm, rồng liệng cảnh vân) Lý Thiện chua: “Hiếu kinh viên thần khế viết: ‘Vương giả đức chí sơn lăng tắc cảnh vân xuất’.” (tạm dịch: Vương ấy có đức đến sơn lăng thời cảnh vân xuất hiện.) Cốc phong là gió đông; nguồn gốc: kinh Thi, Phong, Bội phong, Cốc phong: “Tập tập cốc phong, dĩ âm dĩ vũ.” (Tạ Quang Phát dịch: Ngọn gió đông điều hòa thư thái; khiến mây che rồi lại mưa rào.) Nhĩ nhã, Thích thiên: “Đông phong vị chi cốc phong.” (tạm dịch: Gió đông gọi là cốc phong.) Liên quan đến rồng, mây, cọp, gió, xem chú thích ở trên.
^Nguyên văn: 幽灵上通/u linh thượng thông. U linh nghĩa là linh hồn của người chết, tức quỷ hồn, u hồn hay âm hồn; ví dụ: Hậu Hán thư, quyển 48, Hoắc Tư truyện: “Tích Đông Hải hiếu phụ, kiến uổng bất cô, u linh cảm cách, thiên ứng khô hạn.” (tạm dịch: Xưa có đàn bà hiếu ở Đông Hải, gặp oan không tội, u linh gây cảm động, trời ứng khô hạn.) Thượng thông nghĩa là liên thông với bề trên hãy cõi trên; nguồn gốc: Quản tử, Minh pháp: “Hạ tình bất thượng thông, vị chi tắc; hạ tình thượng nhi đạo chỉ, vị chi xâm.” (tạm dịch: Tình hình kẻ dưới không thông lên trên, gọi là tắc; tình hình kẻ dưới lên giữa đường mà dừng, gọi là xâm.) Doãn Tri Chương chua: “Cầu bất thượng thông, tắc dữ quân cách tuyệt, cố viết tắc dã.” (tạm dịch: Xin không thông lên trên, thời cùng vua bị ngăn cách, nên gọi tắc vậy.)
^Nguyên văn: 和气/hòa khí, là khí do âm khí và dương khí ở giữa trời đất giao hợp mà nên, người xưa cho vạn vật do “hòa khí” sanh ra. Lão tử: “Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương, xung khí dĩ vi hòa.” (tạm dịch: Muôn vật cậy Âm mà ôm Dương, chan khí để làm Hòa.)
^Nguyên văn: 征应/trưng ứng, nghĩa là chứng nghiệm, chứng cứ. Ví dụ: Hán thư, Tự truyện thượng: “Cái tại Cao tổ, kì hưng dã hữu ngũ... tam viết thần vũ hữu trưng ứng,...” (tạm dịch: Giống như (Hán) Cao tổ, sự trỗi dậy của ông ấy cũng có năm... ba gọi là thần vũ có trưng ứng.)
^Nguyên văn: 烟景以集/yên (khói) cảnh (quang cảnh) dĩ tập (đã đậu), ý nói cảnh sắc trong hơi nước trở nên mênh mang.
^Nguyên văn: 精气/tinh khí, được cho là bản nguyên của sanh mệnh. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ thượng: “Tinh khí vi vật, du hồn vi biến, thị cố tri quỷ thần chi tình trạng.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch:...khí tinh kết tụ, vật bèn sinh ra. Du hồn biến hoá lại qua; quỉ thần tình trạng âu là đã hay. Và giải thích: Ta cũng thấy rằng: Tinh và khí, nếu mà hợp nhau thời tạo nên muôn vật. Còn nếu hồn phách lìa nhau, thời vạn vật cũng tan biến. Khi lìa nhau, hồn khinh thanh sẽ bay lên; phách trọng trọc sẽ lắng xuống, còn xác sẽ tan rã ra. Như vậy, quỉ thần chỉ là những động lực tạo thành vạn vật. Gọi là Thần, khi sinh khí lồng vào vạn vật. Gọi là Quỉ, khi sinh khí lìa khỏi vạn vật.) Khổng Dĩnh Đạt giải nghĩa: “Vân tinh khí vi vật giả, vị âm dương tinh linh chi khí, nhân uân tích tụ nhi vi vạn vật dã.” (tạm dịch: Nói tinh khí là vật ấy, gọi là khí của âm dương tinh linh, khí trời đất hòa hợp (Thiều Chửu dịch) tích tụ mà làm muôn vật vậy.)
^Nguyên văn: 县象\huyền tượng, tức là thiên tượng, các hình trạng sự việc xảy ra trong bầu trời. Nguồn gốc: Kinh Dịch, Hệ từ thượng: “Huyền tượng trứ minh, mạc đại hồ nhật nguyệt.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Thái Dương cùng với bóng Hằng, tượng trưng rực rỡ, huy quang sáng ngời. Và giải thích: Trong các hiện tượng trên khung trời, không gì sáng láng hơn mặt trời, mặt trăng.)
^Nguyên văn: 先鸣/tiên (trước) minh (loài chim hót). Nguồn gốc: Tả truyện, (Lỗ) Tương công năm thứ 21: “Bình Âm chi dịch, tiên nhị tử minh.” (tạm dịch: Chiến dịch Bình Âm, gáy trước 2 người.) Đỗ Dự chua: “Thập bát niên, Tấn phạt Tề, cập Bình Âm. Châu Xước hoạch Thực Xước, Quách Tối. Cố tự bỉ vu kê, đấu thắng nhi tiên minh.” (tạm dịch: Năm thứ 18, Tấn đánh Tề, đến Bình Âm. Châu Xước bắt Thực Xước, Quách Tối. Nên tự sánh với gà, đấu thắng mà gáy trước.)
^Thái Bạch là tên gọi khác của sao Kim, đạt độ sáng lớn nhất ngay sát thời điểm hoàng hôn hoặc bình minh, do vậy mà dân gian còn gọi là sao Hôm hoặc sao Mai.
^Huỳnh Hoặc là tên gọi khác của sao Hỏa, đời xưa gọi hiện tượng sao Hỏa di chuyển đến gần 3 ngôi sao Tâm Túc (tượng trưng cho hoàng đế, thái tử, thứ hoàng tử) và dừng lại một thời gian là Huỳnh Hoặc thủ Tâm, cho rằng đó là điềm chẳng lành: hoàng đế gặp tai ương, quốc gia có chiến tranh. Ví dụ: Khi Huỳnh Hoặc thủ Tâm xảy ra vào thời Hán Thành đế, triều đình ép tể tướng Trạch Phương Tiến phải tự sát, nhưng vài ngày sau hoàng đế cũng băng hà. Trên thực tế, sao Hỏa không dừng lại mà là di chuyển chậm hơn Trái Đất, còn trong lịch sử Trung Quốc, có chừng 70% số lần báo động Huỳnh Hoặc thủ Tâm là ngụy tạo.
^Nguyên văn: 神道/thần đạo, tức thần thuật, ma thuật, hay pháp thuật. Ví dụ: Hậu Hán thư, Phương thuật truyện hạ, Tả Từ: “Thiếu hữu thần đạo.” (tạm dịch: Từ nhỏ có pháp thuật.)
^Nguyên văn: 晋柩牛呴/Tấn (nước Tấn) cữu (quan tài) ngưu (con bò) ha (hà hơi). Nguồn gốc: Tả truyện, (Lỗ) Hi công năm thứ 32: “Đông, Tấn Văn công tốt. Canh thìn, tương tấn vu Khúc ốc, xuất Giáng, cữu hữu thanh như ngưu. Bốc Yển sử đại phu bái. Viết: “Quân mệnh đại sự. Tương hữu tây sư quá dật ngã, kích chi, tất đại tiệp yên.” (tạm dịch: Mùa đông, Tấn Văn công mất. Ngày Canh thìn, sắp đưa tang vào Khúc Ốc, ra khỏi Giáng, quan tài có tiếng như bò. Bốc Yển sai các đại phu vái. Nói: “Nhà vua mệnh cho việc lớn. Sắp có quân từ phía tây đến lấn ta, đánh họ, ắt đại thắng đấy.) Đây là Quản Lộ nhắc đến trận Hào Sơn vào năm 627 TCN giữa 2 nước Tấn – Tần.
^Nguyên văn: 鸿嘉石鼓/Hồng Gia thạch (đá) cổ (cái trống). Ngày ất hợi, tháng 5 ÂL năm Hồng Gia thứ 3 (18 TCN) thời Hán Thành đế, người ở huyện Ký, quận Thiên Thủy (nay là huyện Cam Cốc, địa cấp thị Thiên Thủy, Cam Túc) phát hiện khối đá có đường kính chừng 1,3 trượng, cao hơn 200 trượng, dân gian quen gọi là “trống đá”. Khối đá có thể phát ra âm thành ù ù như sấm, vang xa hơn 240 dặm, đến tận huyện Bình Lương (nay là tây bắc huyện Thông Vị, địa cấp thị Định Tây, Cam Túc), gà trĩ trong khu vực đều gáy theo. (xem Hán thư, quyển 27, Ngũ hành chí) Cùng năm, bọn Trịnh Cung nổi loạn ở quận Quảng Hán (nay là huyện cấp thị Quảng Hán, địa cấp thị Đức Dương, Tứ Xuyên), tự xưng Sơn quân, lực lượng lên đến vạn người, sang mùa đông năm sau mới bị tân nhiệm Quảng Hán thái thú Triệu Hộ trấn áp. (xem Hán thư, quyển 10, Thành đế kỷ)
^Nguyên văn: 不时/bất thì, nghĩa là không đúng lúc, không hợp thời. Nguồn gốc: Luận ngữ, Hương đảng: “Thất nhẫm bất thực, bất thì bất thực.” (tạm dịch: Không nấu chín không ăn, không đúng lúc không ăn.)
^Nguyên văn: 怨讟/oán độc, nghĩa là oán hận và phỉ báng. Ví dụ: Hậu Hán thư quyển 22, Vương Lương truyện: “Kiến nghị khai cừ, vi nhân hưng lợi, lữ lực kí khiên, hất vô thành công, bách tính oán độc.” (tạm dịch: Đề nghị khơi ngòi, làm lợi cho người, ra sức sai lầm, đến nỗi không thành công, trăm họ oán độc.
^Nguyên văn: 奢泰/xa thái, nghĩa là quá mức xa xỉ. Ví dụ: Hán thư quyển 75, Hạ Hầu Thắng truyện: “Xa thái vong độ, thiên hạ hư háo.” (tạm dịch: Xa thái quên điều độ, thiên hạ hao tổn.)
^Nguyên văn: 金不从革/Kim bất tòng (thuận theo) cách (cách trong cải cách). Tòng cách là thuật ngữ trong thuyết pháp về Vận Khí của triết học Trung Quốc cổ đại, tức là vào năm có Kim vận bất cập, khí Kim không đủ, những vật cứng rắn đều bị nứt vỡ, gãy hỏng, chịu sự thay đổi về hình trạng, như thế gọi là Tòng cách. Quản Lộ nói “Kim bất tòng cách” ý rằng loài Kim lúc ấy không tuân theo lẽ thường của tự nhiên.
^Nguyên văn: 钦嘉/khâm gia, nghĩa là kính trọng (khâm phục) và khen ngợi (gia hứa).
^Nguyên văn: 杳冥/yểu (mờ mịt) minh (minh trong u minh, nghĩa là u ám).
^Nguyên văn: 未然/vị nhiên, ý nói những sự thật chưa hoàn thành, chuyện chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. Ví dụ: Hàn Phi tử, Nan tứ: “Vị tri Tề chi xảo thần, nhi phế minh loạn chi phạt; trách dĩ vị nhiên, nhi bất tru chiêu chiêu chi tội. Thử tắc vọng hĩ.” (tạm dịch: Chưa biết bề tôi khéo của Tề, mà bỏ hình phạt sáng – tối; trách lấy vị nhiên, mà không trị tội rõ ràng. Đây ắt là làm sằng đấy.)
^Nguyên văn: 聪明/thông minh, phiếm chỉ tai và mắt. Ví dụ: Lễ ký, Nhạc ký: “Gian thanh loạn sắc, bất lưu thông minh.” (tạm dịch: Tiếng gian màu rối, không giữ thông minh.) Khổng Dĩnh Đạt giải thích: “Vị bất sử gian thanh loạn sắc lưu đình vu nhĩ mục, lệnh nhĩ mục bất thông minh dã.” (tạm dịch: Bảo rằng không khiến tiếng gian màu rối giữ lại ở tai mắt, làm cho tai mắt không thông minh vậy.)
^Nguyên văn: 神化/thần hóa, nghĩa là thay đổi lặng lẽ (hóa) để trở nên thần kỳ. Ví dụ: Sử ký quyển 126, Hoạt kê truyện, tự: “Thi dĩ đạt ý, Dịch dĩ thần hóa.” (tạm dịch: Kinh Thi đã nên ý, kinh Dịch đã thần hóa.)
^Trực mãn là 1 trong Kiến trừ thập nhị trực (建除十二直), quen gọi Thập nhị kiến trừ hay Thập nhị trực, tức là tên gọi của các sao thuộc chòm sao Phá Quân (còn gọi là Dao Quang) ứng với 12 tháng trong năm (trong thiên văn học hiện đại, chòm sao Phá Quân cũng là chuôi (kiến) của chòm sao Bắc Đẩu, vì vậy Thập nhị trực còn gọi là Thập nhị kiến tinh). 12 trực bao gồm: kiến, trừ, mãn, bình, định, chấp, phá, nguy, thành, thu, khai, bế. Trực được xem là một trong những căn cứ xét lành – gở của thời điểm (tháng, ngày, giờ) muốn lựa chọn để tiến hành làm một việc gì đó. Ví dụ: Hoài Nam tử, Thiên văn huấn: “Dần vi kiến, Mão vi trừ, Thìn vi mãn, Tỵ vi bình, chủ sanh; Ngọ vi định, Mùi vi chấp, chủ hãm; Thân vi phá, chủ hành; Dậu vi nguy, chủ tiêu; Tuất vi thành, chủ thiểu đức; Hợi vi thu, chủ đại đức; Tý vi khai, chủ thái tuế; Sửu vi bế, chủ thái âm.”
^Từ đời Hán trở về trước, giới huyền học Trung Quốc lấy (thần) sao Tất làm Vũ sư, tức thần mưa. Chu lễ, Đại tông bá: “Dĩ liệu tự Tư trung, Tư mệnh, Phong sư, Vũ sư.” (tạm dịch: Để đốt lửa cúng Tư trung, Tư mệnh, Phong sư, Vũ sư) Trịnh Huyền chua: “Vũ sư, Tất dã.” (tạm dịch: Vũ sư, sao Tất đấy.”) Kinh Thi, Nhã, Tiểu nhã, Tiệm tiệm chi thạch: “Hữu thỉ bạch trịch, chưng thiệp ba hĩ, nguyệt li vu tất, tỉ bàng đà hĩ. Vũ nhân đông chinh, bất hoàng tha hĩ.” (tạm dịch: Có lợn móng trắng, kết đàn lội sông, trăng bám vào Tất, khiến mưa tầm tã. Người ta theo Vũ vương đông chinh, không cứu vua hắn.) Bấy giờ, Vũ sư có tên là Bình Ế hay Huyền Minh. Do ảnh hưởng bởi Đạo giáo, từ Hán đến Đường xuất hiện thêm những cái tên là Xích Tùng tử, Thương Dương thị. Do ảnh hưởng của Phật giáo, từ đời Đường – Tống về sau, việc làm mưa được chuyển hẳn sang cho Long vương, dân gian không nhắc đến Vũ sư nữa.
^Nguyên văn: 东井/Đông Tỉnh, tức là chòm sao Tỉnh (Tỉnh tú) trong Nhị thập bát tú.
^Nguyên văn: 告命/cáo mệnh, ý nói bề trên thông báo bề dưới. Nguồn gốc: Kinh Dịch, quẻ Địa Thiên Thái, hào Thượng lục: “Thành phục vu hoàng. Vật dụng sư. Tự ấp cáo mệnh. Trinh lận.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Hào Thượng lục: lũy thành đổ nát; hãy dụ dân, đừng phát đao binh. Dụ dân, ngay tự thành mình; nếu mà giết chóc sẽ thành công toi.) Cao Hanh chua: “Ấp nhân thỉnh mệnh bất yếu dụng binh.” (tạm dịch: Người trong ấp thỉnh mệnh không cần dùng binh.)
^Nguyên văn: 南箕/Nam Cơ, tức là chòm sao Cơ (Cơ tú) trong Nhị thập bát tú.
^Nguyên văn: 含灵/hàm linh, ý nói bên trong (vật) sinh ra linh tính. Ví dụ: Dữu Xiển – Thiệp giang phú: “Thả phu sơn xuyên côi quái, thủy vật hàm linh, lân thiên kì tộc, vũ vạn kì danh.” (tạm dịch: Vả ôi các thứ lạ lùng ở sông núi, loài vật dưới nước hàm linh, loài cá hàng ngàn, loài chim hàng muôn.)
^Nguyên văn: 习习冠盖/tập tập cốc phong. Nguồn gốc: Kinh Thi, Quốc phong, Bội phong, Cốc phong: “Tập tập cốc phong, dĩ âm dĩ vũ.” (Tạ Quang Phát dịch: Ngọn gió đông điều hòa thư thái; khiến mây che rồi lại mưa rào.)
^Nguyên văn: 欬唾之间/khái (ho) thóa (khạc, nhổ) chi gian, ý nói khoảng thời gian rất ngắn.
^Nguyên văn: 品物流形/phẩm vật lưu hình, ý nói mọi vật được hình thành. Nguồn gốc: kinh Dịch, quẻ Thuần càn, Thoán truyện: “Vân hành vũ thí. Phẩm vật lưu hình.” (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê dịch: Rồi ra vũ thí, vân hành; làm cho vạn vật hình thành đòi nơi.)
^Nguyên văn: 常期/thường kỳ, nghĩa là có kỳ hạn (không cụ thể nhưng nhất định sẽ đến). Ví dụ: Tào Phi – Điển luận, Luận văn: “Niên thọ hữu thì nhi tẫn, vinh nhạc chỉ hồ kì thân, nhị giả tất chí chi thường kì, vị nhược văn chương chi vô cùng.” (Tuổi thọ có lúc sẽ hết, vẻ vang chỉ cho bản thân, 2 thứ ấy ắt đến thường kỳ, chẳng bằng văn chương ấy vô cùng.)
^Nguyên văn: 当为/đương vi, là thuật ngữ của Huấn cổ học đời xưa, ý nói học giả nhận ra mình nhận lầm chữ, nên hiểu sai nghĩa, bèn tự cải chính. Đoàn Ngọc Tài – Chu lễ Hán độc khảo, Tự: “Đương vi giả, định vi tự chi ngộ, thanh chi ngộ nhi cải kì tự dã,vi cứu chánh chi từ.” (tạm dịch: Đương vi ấy, nhận lầm chữ, làm rõ chỗ lầm mà đổi chữ ấy, để hiểu đúng câu.)
^Nguyên văn: 言念费损/ngôn niệm phí tổn. 念/niệm nghĩa là nhớ nhung (tưởng niệm), 言/ngôn chỉ là trợ từ. Nguồn gốc: Kinh Thi, Quốc phong, Tần phong, Tiểu Nhung: “Ngôn niệm quân tử, ôn kì như ngọc.” (Tạ Quang Phát dịch: Chàng ôi! Em nhớ thiết tha; tình chàng như ngọc ôn hoà dễ thương.)
^Nguyên văn: 少女微风/Thiếu Nữ vi phong. 少女风/Thiếu Nữ phong nghĩa là gió tây; 微/vi nghĩa là nhỏ.
^Nguyên văn: 阴鸟和鸣/âm điểu hòa minh. Âm điểu tức 鸣阴之鸟/minh âm chi điểu, loài chim hót trong bóng râm. Tương truyền, khi trời sắp mưa, dương điểu sẽ xếp cánh, còn âm điểu sẽ hót vang.
^Nguyên văn: 少男风/Thiếu Nam phong, nghĩa là gió đông bắc.
^Nguyên văn: 艮风/Cấn phong. Cấn ở hướng đông bắc, nên Cấn phong cũng là tên gọi khác của gió đông bắc.
^Nguyên văn: 玄气/huyền khí, tức khí trời (thiên khí). Nguồn gốc: Hán thư, Lễ nhạc chí: “Huyền khí chi tinh, hồi phục thử đô.” (tạm dịch: Tinh hoa của huyền khí, trở về đô này.) Nhan Sư Cổ chua: “Huyền, thiên dã. Ngôn thiên khí chi tinh, hồi toàn phản phục vu thử vân dương chi đô.” (tạm dịch: Huyền, trời đấy. Nói rằng tinh hoa của khí trời, quay lại trở về ở kinh đô Vân Dương này.)
^Nguyên văn: 用知/dụng tri, quen dùng 用智/dụng trí, ý nói vận dụng trí mưu, phiếm chỉ khôn vặt (tiểu thông minh). Ví dụ: Lữ thị Xuân Thu, Bác chí: “Phàm hữu giác giả vô thượng xỉ, quả thật phồn giả mộc tất bí; dụng trí biển giả vô toại công, thiên giá sổ dã.” (Cứ có sừng ấy không có răng hàm trên, cây trái nhiều thì thân ắt thấp; dụng trí hẹp ấy không thành công, trời đặt số này vậy.)
^Nguyên văn: 龙云/long (rồng) vân (mây), ý nói cơ hội, thời vận. Ở chú thích trên có nhắc đến lời giảng của Khổng tử: “vân tòng long, phong tòng hổ”. Từ đấy có câu thành ngữ ‘long hưng vân thuộc’ (龙兴云属), ý nói một khi bậc vương giả nổi dậy, thì những hạng hiền thần, lương tướng cũng bước ra giúp đời.
^Nguyên văn: 养和通幽/dưỡng hòa thông u. Hòa phiếm chỉ nguyên khí của con người; U phiếm chỉ quỷ thần
^Nguyên văn: 周旋/chu toàn, là động tác tiến thoái để vái chào trong khi hành lễ đời xưa, phiếm chỉ việc ứng đối, giao tế. Nguồn gốc: Lễ ký, Nội tắc: “Tại phụ mẫu cữu cô chi sở, hữu mệnh chi, ứng duy kính đối tiến thoái chu toàn thận tề.” (tạm dịch: Ở chỗ của cha mẹ cậu cô, có lời khiến, đáp lại chỉ có kính trọng tiến lui chu toàn, cẩn thận, ngay ngắn.)
^Nguyên văn: 枝附叶连/chi phụ diệp liên, nghĩa là cành đỡ lá liền, ý nói cấp trên và cấp dưới có quan hệ khắng khít. Nguồn gốc: Bùi Tùng Chi chú Tam quốc chí, Thục chí, Khương Duy truyện, dẫn Thường Cừ – Hoa dương quốc chí: “Duy kiến Hạo chi phụ diệp liên, cụ vu thất ngôn, tốn từ nhi xuất.” (tạm dịch: (Khương) Duy thấy (Hoàng) Hạo chi phụ diệp liên (với Thục Hán Hậu chủ), sợ nói gì thất thố, nhún mình từ tạ mà lui ra.)
^Nguyên văn: 周流五曜/chu lưu ngũ diệu. Chu lưu được Trần Văn Chánh dịch là chảy khắp, tới mọi nơi chốn; ví dụ: Sử Ký, Hóa thực liệt truyện: “Phú thương đại cổ, chu lưu thiên hạ, giao dịch chi vật mạc bất thông” (Đoan Hùng dịch: Phú thương, các nhà buôn bán lớn chu du khắp thiên hạ, mang hàng hóa đến khắp mọi nơi khiến cho mọi người đều có thể mua được thứ mình cần.) Ngũ diệu tức là ngũ hành.
^Nguyên văn: 经纬三度/kinh vĩ tam độ. Kinh nghĩa là dọc, vĩ nghĩa là ngang. Tam độ tức là tam tài (thiên, địa nhân), ý Quản Trọng nói đến ba phương diện cần phải tìm hiểu trong việc trị nước, Quản tử, Ngũ phụ: “Sở vị tam độ giả hà? Viết: thượng độ chi thiên thì, hạ độ chi địa nghi, trung độ chi nhân thuận.” (tạm dịch: Cái gì gọi là tam độ vậy? Rằng: Thượng độ là thời cơ, hạ độ là hình thế, trung độ là lòng người.)
^Nguyên văn: 微言风集/vi (vi trong tinh vi) ngôn (lời nói) phong (phong trong phong tục) tập (tập trong tập hợp). Phong tập là trạng thái của lượng lớn sự vật được tập hợp nhanh chóng rồi trào ra nhanh chóng.
^Kinh Phòng (77TCN – 37TCN), học giả chuyên về kinh Dịch đời Tây Hán, tác phẩm tiêu biểu là Kinh thị Dịch truyện. Kinh Phòng bị hoạn quan Thạch Hiển gièm pha, chịu chết trong ngục.
^Nguyên văn: 遘谗之党/cấu sàm chi đảng. Cấu sàm ý nói chế tạo sàm ngôn.
^Nguyên văn: 万乘之主/vạn thặng chi chủ, nghĩa là chủ của của muôn cỗ xe, tức nhà vua.
^Nguyên văn: 佞谄之徒/nịnh siểm chi đồ, nghĩa là bè lũ nịnh nót.
^Nguyên văn: 洪范/Hồng phạm, là tên của một thiên trong kinh Thư. Hồng ý nói lớn (đại), phạm ý nói pháp, Hồng phạm ý nói phương pháp thống trị. Hán thư, Ngũ hành chí: “Vũ trị hồng thủy, tứ Lạc thư, pháp nhi trần chi, ‘Hồng phạm’ thị dã.” (tạm dịch: Đế Vũ trị thủy, ban Lạc thư, phương pháp được trình bày ở Hồng phạm đấy.)
^Tư trị thông giámquyển 66, Hán kỷ 58: Hiếu Hiến hoàng đế tân Kiến An thập tứ niên (Kỷ Sửu, công nguyên năm 209)... Hiếu Hiến hoàng đế tân Kiến An thập ngũ niên (Canh Dần, công nguyên năm 210)...