Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Shake It Off

"Shake It Off"
Đĩa đơn của Taylor Swift
từ album 1989
Phát hành19 tháng 8 năm 2014 (2014-08-19)
Phòng thu
Thể loạiDance-pop
Thời lượng3:39
Hãng đĩaBig Machine
Sáng tác
Sản xuất
  • Max Martin
  • Shellback
Thứ tự đĩa đơn của Taylor Swift
"The Last Time"
(2013)
"Shake It Off"
(2014)
"Blank Space"
(2014)
Video âm nhạc
"Shake It Off" trên YouTube

"Shake It Off" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift và cũng là đĩa đơn mở đường cho album phòng thu thứ năm của cô 1989. Swift đã viết lời và soạn giai điệu cho bài hát cùng với các nhà sản xuất Max MartinShellback. Quá trình sáng tác "Shake It Off" bắt nguồn từ việc truyền thông luôn luôn soi mói dòm ngó hình tượng của Swift, và nội dung lời bài hát cho thấy nữ ca sĩ "tỉnh bơ" trước những lời chê bai chỉ trích của truyền thông và những người ghét bỏ. Về mặt nhạc lí, "Shake It Off" là một sản phẩm dance-pop sôi động có sử dụng phần nhịp trống loop, một đoạn âm thanh kèn saxophone và đoạn bridge lấy nhịp bằng tiếng vỗ tay. Hãng đĩa Big Machine Records phát hành "Shake It Off" vào ngày 19 tháng 8 năm 2014 nhằm quảng bá 1989 là album nhạc pop đầu tiên của Swift sau những nhạc phẩm thể loại đồng quê trước đó của cô.

Mặc dù các nhà phê bình đã khen ngợi giai điệu nhạc dance-pop bắt tai của "Shake It Off", nhưng cũng có một số người phê bình ca từ của bài hát là yếu ớt. Sau này, các cây viết đánh giá đã công nhận "Shake It Off" đích thực là một ca khúc mở đường hiệu quả cho album 1989 và giúp Swift lột xác từ hình tượng nhạc sĩ đồng quê trở thành biểu tượng nhạc pop. Bản nhạc xuất hiện trong danh sách cuối thập niên 2010 của NMEConsequence. "Shake It Off" vươn lên ngôi đầu bảng ở Úc, Canada, Hungary, Mexico, New Zealand và Ba Lan, và được chứng nhận nhiều đĩa bạch kim tại Úc, Canada, Nhật Bản, New Zealand, Na Uy và Anh Quốc. Tại Hoa Kỳ, bài hát mở màn ở vị trí quán quân Billboard Hot 100 và được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận đĩa kim cương.

Mark Romanek phụ trách đạo diễn video âm nhạc cho "Shake It Off". Trong MV, Swift thể hiện vai diễn là một người hậu đậu vụng về trong việc thực hiện một số thao tác vũ đạo. Video âm nhạc của "Shake It Off" đã bị chỉ trích là chiếm dụng văn hóa vì lồng ghép những vũ đạo thường gắn liền với người da màu chẳng hạn như thực hiện động tác lắc mông twerk. Swift đã trình diễn ca khúc ở nhiều chương trình trao giải và lễ hội âm nhạc, tiêu biểu là cô đã từng đưa "Shake It Off" vào ba chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới của cô: The 1989 World Tour (2015), Reputation Stadium Tour (2018) và The Eras Tour (2023). "Shake It Off" đã mang về cho nữ ca sĩ một giải Bài hát yêu thích nhất tại People's Choice Awards và ba đề cử tại giải Grammy. Sau khi xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu tác phẩm vào năm 2019, Swift quyết định tái thu âm bài hát với tên gọi "Shake It Off (Taylor's Version)" và đưa vào album tái thu âm năm 2023 của cô, 1989 (Taylor's Version).

Bối cảnh

Trước kia, Taylor Swift được cho là một nhạc sĩ đồng quê cho đến khi cô phát hành album phòng thu thứ tư, Red, vào ngày 22 tháng 10 năm 2012.[1][2] Nữ nhạc sĩ đã hòa trộn thêm thể loại pop chiết trung với rock trong Red, làm cho nhạc phẩm trở nên khác lạ so với phong cách đồng quê trong các album trước đây của cô.[1] Thông qua quá trình hợp tác với các nhà sản xuất nhạc pop người Thụy Điển Max MartinShellback, công trình sáng tác nhạc của Swift đã góp mặt thêm phần hook thiên hướng pop cũng như những thể loại mới như EDMdubstep.[3][4] Dẫu vậy, Swift và hãng đĩa Big Machine vẫn quảng bá Red là album nhạc đồng quê.[5][6] Chính vì Red mang nhiều màu sắc âm nhạc nên đã khiến cho giới phê bình tranh cãi mổ xẻ gay gắt về chuyện hình tượng nghệ sĩ nhạc đồng quê của Swift, và nữ ca sĩ đã lên tiếng trong một cuộc phỏng vấn với The Wall Street Journal rằng, "Tôi để cho người ta mặc sức gắn thể loại."[7]

Swift bắt đầu sáng tác các bài hát cho album phòng thu thứ năm vào giữa năm 2013 trong lúc vẫn còn đang thực hiện chuyến lưu diễn The Red Tour,[8] bằng cách khơi gợi cảm hứng từ thể loại synth-pop đến từ thập niên 1980. Năm 2014, album phòng thu thứ năm 1989 của Swift lên kệ, trở thành "album mang tư liệu pop chính thức đầu tiên" theo lời tuyên bố của nữ ca sĩ cũng như album được đặt tên theo năm sinh của cô.[9][10][11] Thông qua 1989, Swift đã cùng với các nhà sản xuất tận dụng nặng nề các nhạc cụ như gõ trống lập trình, đàn tổng hợp synthesizer cùng với phong cách thể loại như điện tửdance, khiến cho album này tương phản hoàn toàn so với phong cách biên khúc acoustic đến từ các album đồng quê trước kia của nữ ca sĩ.[12][13] Swift và Max Martin trở thành giám đốc sản xuất của 1989.[14] Ở phần ghi công trong Digital Booklet của 1989 (Deluxe Edition) cho biết, Martin và người hợp tác thường xuyên Shellback của ông sản xuất 9 bài hát trên tổng số 16 bài hát, gồm cả "Shake It Off".[15]

Nhạc và lời

Swift đảm nhận công việc sáng tác lời và cùng Martin và Shellback biên khúc giai điệu cho "Shake It Off".[16] Đây là bài cuối cùng được thu âm và đặt vào album 1989.[17] "Shake It Off" được Sam Holland thu âm tại phòng thu Conway Recording Studios ở Los Angeles, còn Michael Ilbert thì phụ trách phần việc tương tự bên phòng thu MXM Studios bên Stockholm, Thụy Điển.[15] Serban Ghenea thực hiện công việc phối trộn âm thanh "Shake It Off" tại MixStar Studios bên Virginia Beach, Virginia, Tom Coyne đảm đương phần kỹ thuật master bài hát bên Sterling Sound Studio tại thành phố New York.[15]

"Shake It Off" là một bài hát dance-pop tiết tấu nhanh sử dụng âm thanh kèn saxophone.[18][19] Nghệ sĩ biểu diễn saxophone Jonas Thande đã dựa vào đoạn mẫu kèn MIDI được thu sẵn của Martin để thực hiện biểu diễn phân đoạn của anh bằng nhạc cụ kèn tenor.[14] Thande đã mất hơn mười giờ để tinh chỉnh phần saxophone và hoàn tất vào hôm kế tiếp.[14] "Shake It Off" là một bài hát sử dụng tiến trình hợp âm ii–IV–I cùng với cấu trúc là phân khúc–tiền điệp khúc–điệp khúc. Drew Nobile đã diễn tả bài hát bắt đầu bằng phân khúc nhẹ nhàng thả lỏng, chặt chẽ hơn ở tiền điệp khúc rồi lại thư thái ở phần điệp khúc.[20] Khâu sản xuất của bài hát sôi động là tổ hợp của nhịp trống loop, đoạn bridge lấy nhịp bằng tiếng vỗ tay và âm saxophone tổng hợp.[21][22]

Swift đã lấy cảm hứng sáng tác lời bài hát từ câu chuyện cô bị truyền thông bám đuổi từ lúc cô bắt đầu nổi tiếng trở thành ngôi sao.[23] Phỏng vấn cùng với tạp chí Rolling Stone vào tháng 8 năm 2014, Swift nói về cảm hứng bài hát rằng: "Tôi đã bị mổ xẻ hầu như mọi góc cạnh trong cuộc đời tôi ... Khi mà bạn đang sống mà phải hứng chịu quá nhiều sự đàm tiếu từ dư luận, bạn có thể để những chuyện đó làm bạn gục ngã, hoặc bạn có thể tập cách né nắm đấm của người khác hướng vào mặt bạn thật tốt. Và khi đã bạn làm tốt được một chuyện thì bạn sẽ biết cách đối mặt với chuyện đó. Và tôi nghĩ cái cách mà tôi đã đối mặt với [vấn đề của tôi] chính là kệ tất cả (shake it off)."[24] Lúc bàn tán về thông điệp bài hát cùng NPR vào tháng 10 năm 2014, Swift bảo rằng "Shake It Off" đại diện cho quan điểm trưởng thành hơn của cô kể từ đĩa đơn "Mean" (2010), một bài hát cũng được lấy chủ đề từ những người ghét bỏ.[25] Theo lời của Swift, nếu "Mean" là một bài hát thể hiện vai trò nạn nhân của nữ ca sĩ thì "Shake It Off" sẽ là bài cho thấy cô đã mang tư thế chủ động để "rút lại lời nói, và xây dựng óc khôi hài về những người cứ thích chọc tức [tôi] – và không để cho họ làm [tôi] bực mình nữa".[25]

Ở phân khúc đầu tiên bài hát, Swift đề cập đến hình tượng một người phụ nữ lộn xộn với nhiều mối tình lãng mạn do người khác gán cho cô: "I go on too many dates / But I can't make 'em stay / At least that's what people say."[26][27][chú thích 1] Những dòng hát trong điệp khúc được biên soạn theo nhịp để tạo ra phần hook bắt tai qua từng câu: "Cause the players gonna play, play, play, play, play / And the haters gonna hate, hate, hate, hate, hate / Baby, I'm just gonna shake, shake, shake, shake, shake."[27][28][chú thích 2] Đoạn bridge lời nói mở đầu bằng việc Swift khuyên nhủ rằng "dirty cheats of the world ... could have been getting down to this sick beat".[29][30][chú thích 3] Swift đã đăng ký thương hiệu câu hát "this sick beat" tại văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ.[31] Thông điệp bí mật của "Shake It Off" sau khi giải mã trong phần ghi chú album 1989 là, "She danced to forget him."[32][chú thích 4]

Phát hành

Ngày 13 tháng 8 năm 2014, Swift góp mặt trên chương trình trò chuyện The Tonight Show Starring Jimmy Fallon và thông báo rằng cô sẽ phát trực tiếp trên trang Yahoo! vào ngày 18 tháng 8.[33][34] Swift công bố thông tin chi tiết về album 1989 ngay trong buổi phát trực tiếp, đồng thời nữ ca sĩ cho phát hành đĩa đơn chủ đạo "Shake It Off" lẫn công chiếu video âm nhạc của bài hát.[35] Hãng đĩa Big Machine đã tung "Shake It Off" lên kệ kỹ thuật số trên toàn thế giới vào ngày 19 tháng 8.[36] Cùng ngày, Big Machine hợp tác với Republic Records để đưa bài hát lên sóng phát thanh Hoa Kỳ.[37] Trên trang cửa hàng nghệ sĩ của Swift, phiên bản CD đĩa đơn giới hạn của bài hát được phát hành vào ngày 11 tháng 9.[38] Ở châu Âu, "Shake It Off" được thêm vào danh sách phát BBC Radio vào ngày 25 tháng 8,[39] phát thanh Ý vào ngày 29 tháng 8[40] và ra mắt dưới dạng đĩa đơn CD ở Đức vào ngày 10 tháng 10.[41]

Quá trình phát hành "Shake It Off" và album 1989 đã được nhiều người dự đoán từ trước, tính từ lúc sau khi Swift đã thông báo rằng là cô sẽ từ bỏ cội nguồn gốc rễ nhạc đồng quê để phát hành một nhạc phẩm album "pop chính thức".[27] Tạp chí Drowned in Sound đã diễn tả câu chuyện phát hành "Shake It Off" là "một sự kiện văn hóa chấn động lớn không thể nghi ngờ được" kể từ album The King of Limbs năm 2011 của Radiohead.[21] Mặc dù cây viết tạp chí Jason Lipshutz đến từ Billboard cho rằng "Shake It Off" không phải là bài hát "pop hoàn toàn" đầu tiên của Swift. Tuy nhiên, anh vẫn khẳng định đây là dấu hiệu của "bước đột phá táo bạo mà không hề biết trước được điều gì" nhờ vào việc Swift có thể thử nghiệm các bản nhạc vươn ra ngoài thể loại pop đồng quê lừng danh của cô và đạt được thành công ở cả đón nhận chuyên môn lẫn thương mại.[11]

Đánh giá chuyên môn

"Shake It Off" đã nhận về những phản hồi trái chiều từ giới chuyên môn.[42] Tuy một số nhà phê bình khen ngợi âm thanh của "Shake It Off" rất bắt tai nhưng cũng có một số chuyên gia nhận thấy phần lời bài hát lặp lại và thiếu đi cái "chất" so với album Red liền trước, một album mà vốn được coi là đỉnh cao nghệ thuật của Swift.[43][30] Nhà báo Randall Roberts đến từ Los Angeles Times đã khen ngợi quá trình sản xuất ca khúc tràn đầy năng lượng và "tập hợp những tinh túy pop hoàn hảo". Tuy nhiên, Roberts nhận thấy lời bài hát "Shake It Off" nghe nông cạn và gọi đây là bản nhạc kém nhạy bén với các sự kiện chính trị vào thời điểm đó: "Khi mạng sống đang bị đe dọa và dường như không có gì thích hợp là phải đi ứng phó với sự thật thực tế, những kẻ dối trá và lừa lọc sẽ không thể và không nên bị mặc kệ như vậy được."[29] Cộng tác viên Bill Lamb của website About.com dành tặng 5 sao tuyệt đối cho "Shake It Off" và gọi đây là "một trong những đĩa đơn nhạc pop hàng đầu của năm." Anh ca ngợi lời bài hát khôn khéo đem lại thông điệp tích cực, lối biên khúc cuốn hút in sâu trong tâm trí và âm thanh quả quyết.[44]

Cây bút Molly Fitzpatrick trên tờ The Guardian đã bày tỏ khen ngợi âm nhạc của "Shake It Off" nhưng lại chê phần lời không phản ánh đúng năng lực sáng tác bài hát của Swift.[45] Jeff Terich bên tạp chí American Songwriter chấm bài hát ba trên năm sao, xướng danh hướng đi mới của Swift là "một lối rẽ trái đáng để đi theo". Mặc dù Terich đồng tình rằng lời bài hát của "Shake It Off" có thể bị chê bai phản bác nhưng anh vẫn khuyên các nhà phê bình không nên quá lưu tâm vì bài hát "khá là vô hại".[22] Jason Lipshutz viết bài nhận định tích cực trên tạp chí Billboard rằng, "Swift đã chứng minh lý do tại sao cô ấy thuộc về những ong chúa nhạc pop ... chắc chắn bài hát này nghe giống một bản hit."[46] Trong chuyên mục đánh giá album 1989, Alexis Petridis tán tương phần lời "vặn vẹo clichés cho đến khi nghe độc đáo".[47] Theo lời viết của Andrew Unterberger trực thuộc Spin, mặc dù phần nhạc của "Shake It Off" là "cá trích đỏ" lạc lõng đâu đó trong album nhưng bản nhạc này thì lại đại diện cho chủ đề và cá tính mới của Swift qua 1989, một album mà qua đó cô đã cởi mở giải phóng bản thân khỏi những lần trăn trở trong chuyện tình lãng mạn và đón chào năng lượng lạc quan tích cực.[48] Mặc dù ngay cả bản thân Swift cũng thừa biết "Shake It Off" là một bài hát khác biệt trong 1989, nhưng cô vẫn thong thả phát hành ca khúc này làm đĩa đơn dẫn dắt để kêu gọi khán giả khám phá toàn bộ album mà không chỉ những đĩa đơn duy nhất.[49]

Lúc về sau, Hannah Mylrea bên NME đã công nhận "Shake It Off" là một bài mở đường hiệu quả cho kỷ nguyên 1989 của Swift, giúp nữ ca sĩ thay đổi hình tượng sang ca sĩ nhạc pop đại chúng.[50] Rob Sheffield đến từ Rolling Stone nói rằng "Shake It Off" tuy không phải là một trong những bài hát hay hơn của album nhưng anh vẫn ca tụng đây là "trailer thông báo cho màn lột xác synth-pop thập niên 80 yêu dấu của cô ấy".[51] Nate Jones của trang Vulture đồng tình quan điểm nhưng lại chê đoạn bridge của ca khúc là "24 giây dở nhất nguyên album".[30] Trong xếp hạng các đĩa đơn của Swift vào năm 2019, Alexis Petridis đặt "Shake It Off" thứ ba sau "Blank Space" (2014) và "Love Story" (2008), đồng thời anh ca ngợi đoạn hook "không thể cưỡng lại" và "trí tuệ sắc bén".[52] Jane Song viết cho Paste thì ít hào hứng hơn và xếp "Shake It Off" bên cạnh những ca khúc tệ nhất của Swift trong ca-ta-lô của cô. Ngòi bút tạp chí tuyên bố, "Swift có thói quen chọn bài hát tệ nhất trong mỗi album để làm đĩa đơn chủ đạo."[53]

Diễn biến thương mại

Chỉ sau một ngày lên sóng phát thanh, "Shake It Off" thu hút được 9 triệu khán giả nghe đài ở Hoa Kỳ[54] và lập tức xuất hiện lần đầu ở vị trí thứ 45 trên bảng xếp hạng Radio Songs sau hai ngày phát hành.[55] Sau tuần lễ đầu tiên phát hành, đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ 9 bên bảng xếp hạng Adult Top 40 và 12 bên Pop Songs, phá kỷ lục ra mắt hạng cao nhất ở cả hai bảng xếp hạng.[56] Tại bảng xếp hạng Pop Songs, "Shake It Off" đồng kỷ lục ra mắt hạng cao nhất với "Dreamlover" (1993) của Mariah Carey trong tuần lễ đầu.[56] Mặc dù bài hát không được đưa lên đài phát thanh đồng quê nhưng đĩa đơn vẫn ra mắt và đạt vị trí cao nhất ở số 58 trên bảng xếp hạng Country Airplay.[57]

"Shake It Off" trở thành ca khúc thứ 22 mở màn ở vị trí quán quân ở bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ, vào ngày 6 tháng 9 năm 2014.[58] Sau hai tuần lễ liên tiếp đứng đầu, bài hát rơi xuống hạng hai và giữ nguyên vị trí này liên tục tám tuần phía sau "All About That Bass" của Meghan Trainor.[59] Trong tuần thứ mười trụ hạng, "Shake It Off" trở lại ngôi vị số một và tiếp tục giữ nguyên thêm một tuần nữa, tổng cộng là bài hát đã đứng đầu 4 tuần không liên tiếp trên bảng xếp hạng Hot 100.[60] "Shake It Off" đã đứng nhất bảng xếp hạng phát thanh của Billboard như Pop Songs, Adult Top 40 và Adult Contemporary.[61] Tại Hoa Kỳ trong năm 2014, bài nhạc đã tẩu tán được 3,43 triệu bản kỹ thuật số.[62] "Shake It Off" là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất thập kỷ 2010 ở Hoa Kỳ nhờ vào doanh số 5,4 triệu bản tính đến tháng 1 năm 2020.[63] Tính đến thời điểm tháng 2 năm 2024, đĩa đơn vẫn duy trì là bài hát thành công trên bảng xếp hạng Hot 100 nhất của Swift nhờ vào khả năng trụ hạng gần 6 tháng trong top 10 và 50 tuần trên top 100.[64][65] "Shake It Off" nhận được chứng nhận đĩa Kim cương đến từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) sau khi cán mốc 10 triệu đơn vị tiêu thụ.[66] Chính thành tích này đã đưa Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên có cả đĩa đơn lẫn album (Fearless) được chứng nhận đĩa Kim cương tại Hoa Kỳ.[67]

"Shake It Off" cũng leo lên ngôi đầu các bảng xếp hạng tại Úc và nhận được chứng nhận nhiều đĩa Bạch kim tại quốc gia này (18× Bạch kim),[68] Canada (6× Bạch kim)[69] và New Zealand (5× Bạch kim).[70] Tại Anh, bài hát vươn lên hạng hai trên UK Singles Chart[71] và đạt chứng nhận 4× Bạch kim, trở thành đĩa đơn bán chạy nhất của Swift ở Anh.[72] Phía bên Nhật Bản, "Shake It Off" đạt hạng tư trên Japan Hot 100 và mang về chứng nhận đĩa 3× Bạch kim.[73] Bản nhạc còn đứng đầu bảng xếp hạng ở các nước Hungary và Ba Lan,[74] trở thành bản hit top 5 ở các quốc gia châu Âu khác như đạt hạng 2 ở Tây Ban Nha,[75] hạng 3 ở Ireland,[76] Na Uy[77] và Thụy Điển;[78] hạng 4 ở Đan Mạch[79] và Israel;[80] và hạng 5 ở Đức[81] và Hà Lan.[82]

Video âm nhạc

Ý tưởng

Swift mặc áo cao cổ và quần jean trong "Shake It Off" (trái) được so sánh với trang phục của Audrey Hepburn trong bộ phim Funny Face năm 1957 (phải).[83][84]

Mark Romanek đồng ý phụ trách đạo diễn video âm nhạc "Shake It Off" sau khi đội ngũ của Swift cho anh nghe trước bài hát qua chiếc iPod niêm phong và anh cảm thấy bị cuốn hút trước giai điệu của bản nhạc đó.[85] Video âm nhạc và bài hát "Shake It Off" được phát hành cùng trong ngày 18 tháng 8 năm 2014.[86] Video âm nhạc được quay trong vòng ba ngày vào khoảng tháng 6 năm 2014 tại thành phố Los Angeles.[24] Swift cho rằng video "Shake It Off" đã giúp cô thể hiện yếu tố hài hước trong việc cố gắng tìm ra danh tính của chính bản thân: "Phải mất một thời gian dài để nhận ra bạn là ai và bạn phù hợp ở nơi nào trên thế giới."[24] Từ đầu đến cuối video âm nhạc hoàn toàn cho thấy Swift là một người tay chân vụng về, không tài nào thực hiện thành công các vũ đạo cùng với các nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp như múa ba lê, nhảy đường phố, động tác hoạt náo, thể dục nhịp điệu và trình diễn.[24][86] Nữ ca sĩ tóm gọn nội dung video rằng: "Tôi đang đặt mình vào tất cả những tình huống khó xử, ở những cảnh mà các vũ công thật tuyệt vời, và tôi thấy vui với điều đó nhưng lại không hòa nhập được... Tôi múa dở đến mức muốn độn thổ. Video này cho bạn thấy rằng bạn vẫn nên tiếp tục làm việc theo ý muốn, tiếp tục là chính mình, tiếp tục cố gắng tìm ra nơi bạn phù hợp trên thế giới và cuối cùng là bạn sẽ làm được."[24]

Tyce Diorio phụ trách khâu biên đạo trong video ca nhạc "Shake It Off".[87] Đoạn kết video là cảnh Swift khiêu vũ với những người hâm mộ do cô tương tác và lựa chọn cẩn thận trên mạng xã hội.[88] Video âm nhạc của "Shake It Off" còn khơi gợi những khía cạnh khác trong văn hóa đại chúng. Đơn cử, VH1 nhận thấy những sự tương đồng như dàn nữ vũ công múa ba lê trong bộ phim Thiên nga đen năm 2010, người nhảy break trong phim Step Up 3D năm 2010, "bộ đồ lấp lánh và những bước nhảy robot" giống nhạc sĩ nhạc điện tử người Pháp Daft Punk, phong cách lắc mông twerk của Miley Cyrus, các cổ vũ viên trong video "Mickey" (1981) của Toni Basil và trang phục áo cao cổ và quần jean giống kiểu của Audrey Hepburn trong cảnh vũ đạo trong phim Funny Face năm 1957.[83] Các ấn phẩm như Los Angeles TimesThe Sydney Morning Herald cũng phát hiện một số cảnh có nét giống Lady GagaSkrillex.[19][28]

Phân tích và đón nhận

Molly Fitzpatrick đến từ The Guardian đã xem Swift là "một vũ công hơi quá điêu luyện" đối với ý tưởng của video khi viết rằng, "sự pha trộn kỳ lạ giữa nhảy hiện đại, ba-lê và break nhưng về tính dí dỏm thì hoàn toàn thất bại."[45] Peter Vincent bên trang The Sydney Morning Herald gọi video là "vay mượn" vì lồng ghép nhiều nội dung tương tự trong văn hóa đại chúng, và nhà báo còn bày tỏ nghi ngờ trước sự thành công của Swift trong việc chuyển đổi hình ảnh của cô sang nhạc pop.[28] Giáo sư truyền thông Maryn Wilkinson nhận thấy video "Shake It Off" là một hình thức thể hiện tính cách "điên rồ" của Swift trong kỷ nguyên 1989.[chú thích 5] Wilkinson đã khẳng định rằng chính vì Swift đã quá quen với tính cách chăm chỉ và chân thực thông qua các bài hát đồng quê của cô, nên nếu như nữ ca sĩ muốn mạo hiểm chuyển sang dòng nhạc pop "nhân tạo và công nghiệp" thì cô sẽ phải có kế sách khó hiểu để giữ được tính chân thực của bản thân.[90] Theo quan sát của Wilkinson trong video, sau khi Swift thất bại trong mọi động tác khiêu vũ thì nữ ca sĩ lại tự cười chê bản thân. Hành động này cho thấy Swift sẽ không bao giờ "hòa nhập" với "bất kỳ hình ảnh mang tính khả thi trong việc thành công về mặt thương mại nào mà thay vào đó là thích ôm chặt lấy trạng thái điên rồ tự nhiên của mình hơn".[91] Cũng chính hành động đó cho thấy được rằng, Swift đang có ý nhắc nhở khán giả về tính chân thực của cô trước "hoạt động sản xuất các buổi biểu diễn nhạc pop nhân tạo".[91]

Video âm nhạc "Shake It Off" đã gây ra những cáo buộc phân biệt chủng tộc và chiếm dụng văn hóa vì trong đó có chứa những vũ đạo thường gắn liền với khuôn mẫu người Mỹ gốc Phi chẳng hạn như thực hiện động tác lắc mông twerk và breakdance. Bên cạnh đó, do Swift phát hành MV trùng với thời điểm bùng nổ các cuộc tranh luận về mối quan hệ chủng tộc xoay quanh tình trạng bất ổn Ferguson nên nữ ca sĩ cũng đã vấp phải nhiều chỉ trích.[92][93] Lúc phân tích video được cho là "giám sát phân biệt chủng tộc" trong bối cảnh hậu phân biệt chủng tộc, giáo sư truyền thông Rachel Dubrofsky đã nhận ra được sự khác biệt giữa ý tưởng bước nhảy vốn được quy ước là dành riêng cho người da trắng của Swift, chẳng hạn như múa ba lê và hoạt náo, và các bước nhảy vốn được coi là dành riêng cho người da đen như breakdance và twerk.[chú thích 6] Cô lập luận rằng bất kể trang phục và phong thái của Swift khi nữ ca sĩ biểu diễn múa ba lê hoặc cổ vũ phù hợp với cô một cách "tự nhiên" hay không thì cô vẫn "không dễ dàng thể hiện giống như thân thể của một vũ công breakdance lẫn phong cách ăn mặc [khi thực hiện động tác twerk] không ăn khớp với cô ấy một cách mượt mà".[84] Dubrofsky đã đúc kết nội dung video chính là lời tuyên bố của Swift về tính xác thực là người da trắng của cô: "Màu da tôi rất trắng, bạn biết điều đó mà tôi cũng biết điều đó. Việc này thật là khiến cho tôi cảm thấy nực cười do phải cố gắng nhảy múa giống như một người da màu."[95]

The Washington Post cho rằng việc video âm nhạc của "Shake It Off" lồng vào vũ đạo gắn liền với người da màu như twerk lại là một ví dụ khác của cuộc tranh luận đang diễn ra về việc các ca sĩ nhạc pop da trắng đang dần đón nhận văn hóa của người da đen.[96] Đạo diễn Romanek đã đứng ra bảo vệ tác phẩm của mình rằng, "Chúng tôi chỉ đơn giản chọn những phong cách khiêu vũ mà chúng tôi nghĩ sẽ nổi tiếng và thú vị ... Nếu bạn xem kỹ [video] thì đó là một tác phẩm vô cùng tổng thể. Và... đó cũng là một tác phẩm châm biếm. [Video "Shake It Off"] đang tái hiện đủ loại hình mẫu, khuôn sáo và tính rập khuôn trong các video âm nhạc khác".[87][97]

Thành tựu

"Shake It Off" được xướng danh trong danh sách bài hát xuất sắc nhất năm 2014 của nhiều ấn phẩm khác nhau. Ca khúc lọt vào trong top 10 danh sách của Time Out (thứ 3),[98] PopMatters (thứ 4),[99] bình chọn nhà phê bình của Pazz & Jop bên The Village Voice (thứ 4)[100]Consequence (thứ 8).[101] "Shake It Off" góp mặt trong danh sách cuối năm 2014 của Drowned in Sound (thứ 14),[102] Dagsavisen (thứ 16)[103]NME (thứ 27).[104] Bài hát còn được được các trang NMEConsequence xếp vào danh sách xuất sắc nhất thập niên 2010 lần lượt ở hàng 19 và 38.[105][106] USA Today vinh danh "Shake It Off" là một trong mười bài hát đã góp phần định hình nên thập niên 2010.[107]

"Shake It Off" thắng nhiều giải thưởng trong ngành công nghiệp âm nhạc. Hiệp hội nhạc sĩ sáng tác bài hát quốc tế Nashville năm 2015 đã vinh danh ca khúc lúc Swift chính thức nhận giải Nhạc sĩ sáng tác bài hát của năm.[108][109] Bản nhạc còn thắng một giải ở giải BMI Pop năm 2016, và cũng là buổi lễ mà Swift cũng gặt hái được danh hiệu Nhạc sĩ sáng tác bài hát của năm.[110] Tại giải Grammy lần thứ 57 trong năm 2015, "Shake It Off" nhận được đề cử ở ba hạng mục: Thu âm của năm, Bài hát của năm (cả hai đều thuộc về "Stay with Me" của Sam Smith) và Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất nhưng thua giải trước "Happy" của Pharrell Williams.[111]

Trong khuôn khổ giải thưởng Âm nhạc Billboard năm 2015, "Shake It Off" nhận được ba đề cử và mang về giải Bài hát phát trực tuyến hàng đầu (Video).[112] "Shake It Off" thắng Bài hát của năm tại giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio 2015,[113] Video quốc tế được yêu thích nhất tại giải thưởng Âm nhạc Myx 2015 (Philippines)[114] và Bài hát được yêu thích nhất tại giải thưởng People's Choice 2015.[115] Bài hát được đề cử giải thưởng lựa chọn của trẻ em trên kênh Nickelodeon,[116] Teen Choice Awards,[117] giải Rockbjörnen (Thụy Điển),[118] giải thưởng Âm nhạc Radio Disney,[119]Los Premios 40 Principales (Tây Ban Nha).[120]

Biểu diễn trực tiếp

Swift biểu diễn "Shake It Off" tại the 1989 World Tour (2015)

Ngày 24 tháng 8 năm 2014, Swift biểu diễn "Shake It Off" trên sóng truyền hình giải Video âm nhạc của MTV năm 2014.[121] Tiếp đến, cô hát bài hát tại giải thưởng đài phát thanh của Đức vào ngày 4 tháng 9.[122] Nhằm quảng bá 1989, Swift biểu diễn "Shake It Off" trên các chương trình truyền hình bao gồm cả The X Factor Anh vào ngày 12 tháng 10,[123] The X Factor Úc vào ngày 20 tháng 10,[124] Jimmy Kimmel Live! vào ngày 23 tháng 10[125]Good Morning America ngày 29 tháng 10.[126] Ngày 27 tháng 10 năm 2014, nhân dịp phát hành album 1989, nữ ca sĩ biểu diễn đĩa đơn mở đường bằng buổi hòa nhạc nhỏ mang tựa đề "1989 Secret Sessions" do Yahoo!iHeartRadio phụ trách phát sóng trực tiếp.[127] Swift còn trình diễn "Shake It Off" tại nhiều lễ hội âm nhạc như lễ hội Âm nhạc iHeartRadio vào ngày 19 tháng 9,[128] buổi hòa nhạc từ thiện We Can Survive tại Hollywood Bowl vào ngày 24 tháng 10[129]Jingle Ball Tour 2014 vào ngày 5 tháng 12.[130] Tại bữa tiệc sau lễ kỷ niệm 40 năm Saturday Night Live, Swift ngẫu hứng biểu diễn bài hát cùng với người dẫn chương trình Jimmy Fallon (hát nền) và Paul McCartney (hát nền với đánh guitar bass).[131]

Swift đã đưa "Shake It Off" vào danh sách biểu diễn tại ba chuyến lưu diễn thế giới của cô: tiết mục cuối trong The 1989 World Tour,[132] biểu diễn cùng nghệ sĩ hỗ trợ tiết mục Camila CabelloCharli XCX tại Reputation Stadium Tour[133]The Eras Tour (2023).[134] Vào ngày 23 tháng 4 năm 2019, cô biểu diễn phiên bản acoustic của bài hát tại gala Time 100, và đây cũng là nhân dịp cô được vinh danh là một trong số 100 người có ảnh hướng nhất trong năm.[135] Kế đó, cô còn biểu diễn bài hát tại chung kết The Voice Pháp mùa 8 ngày 25 tháng 5,[136] tại lễ hội Wango Tango ngày 1 tháng 6,[137] buổi hòa nhạc một đêm duy nhất City of Lover bên Paris vào ngày 9 tháng 9[138] và chuyến lưu diễn từ thiện We Can Survive bên Los Angeles ngày 19 tháng 10 năm 2019.[139] Tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2019 lúc cô được vinh danh là nghệ sĩ của thập kỷ, Swift trình diễn "Shake It Off" liên khúc với những bài hit của cô bên cạnh sự tham gia của Halsey và Cabello.[140] Cuối cùng, cô trình diễn bài hát tại Jingle Bell Ball 2019 bên Capital FM ở Luân Đôn[141] và Jingle Ball của iHeartRadio Z100 ở thành phố New York.[142]

Tranh cãi

Triple J Hottest 100 năm 2014

Sau khi bài viết ngày 13 tháng 1 năm 2015 trên BuzzFeed mang tiêu đề "Tại sao mọi người không hề bỏ phiếu cho 'Shake It Off' trong The Hottest 100?" được lan truyền, chiến dịch hashtag #Tay4Hottest100 trên mạng xã hội đã bùng nổ trong khoảng thời gian bình chọn cho Triple J Hottest 100.[chú thích 7] Vụ việc này đã khiến cho các phương tiện truyền thông đưa tin rộng rãi sau khi những người hâm mộ âm nhạc tại Úc tranh cãi về giá trị của việc đưa Swift vào cuộc bình chọn.[144][145] Trên thực tế, để đủ điều kiện được bình chọn thì bài hát phải thỏa được một tiêu chí, đó chính là được Triple J phát thanh ít nhất một lần trong năm 2014. Mặc dù "Shake It Off" của Swift chưa từng được phát thanh nhưng bản cover bài hát của nhóm nhạc folk Milky Chance thì lại có.[146] Theo những người chỉ trích chiến dịch, Hottest 100 chỉ dành riêng cho các nghệ sĩ không thuộc giới đại chúng "đã được Triple J phát hiện hoặc nuôi dưỡng" và mang lại ảnh hưởng có giá trị cho các nghệ sĩ ở vòng ngoài của ngành công nghiệp âm nhạc.[147][148] Những người bảo vệ chiến dịch đã chỉ trích việc Triple J ưu ái các nghệ sĩ biểu diễn các "thể loại rock nam tính" và "alternative" do Triple J đã duy trì chủ nghĩa tinh hoa văn hóaphân biệt giới tính.[144][148] Nhà báo Elle Hunt của Guardian Australia đã viết, "chính những phản ứng gay gắt đối với #Tay4Hottest100 đã tiết lộ sự tồn tại dai dẳng của cuộc chia rẽ mà tôi nghĩ rằng chúng ta đã loại bỏ từ lâu: đó chính là nghệ thuật caothấp."[149]

Vào ngày 20 tháng 1 năm 2015, Guardian Australia đã gửi yêu cầu tự do thông tin tới ABC để lấy phản hồi của nhà đài về chiến dịch và trường hợp đủ điều kiện tham gia cuộc thi Hottest 100 của "Shake It Off".[150] Người quản lý của Triple J, Chris Scaddan, đã phát biểu với trang web Tone Deaf rằng: "Chúng tôi không bàn luận về các chiến dịch bình chọn trong khi cuộc bình chọn Hottest 100 vẫn còn đang mở. Vụ này đã thu hút sự chú ý đến họ và có thể ảnh hưởng đến kết quả của cuộc bình chọn."[151] Vào ngày 23 tháng 1, The Sydney Morning Herald đã dẫn bài viết luận bên trường Đại học Queensland rằng chiến dịch #Tay4Hottest100 đã áp đảo Hottest 100 năm 2014 với hơn 7.341 bài đăng Hottest 100 trong 30 ngày qua liên quan đến Swift, so với 230 bài đăng liên quan đến người dẫn đầu cuộc thi hiện tại là Chet Faker.[152] "Shake It Off" cuối cùng đã bị Triple J loại vào ngày 26 tháng 1 năm 2015.[153] Trong thông báo, mặc dù Triple J đã công nhận tài năng âm nhạc và sự nghiệp của Swift nhưng họ vẫn nhấn mạnh rằng việc bài hát cô chưa từng phát thanh sẽ không phản ánh đúng tinh thần của cuộc thi.[144] Sau đó, họ đã đưa ra hai quy định mới nhằm nghiêm cấm "troll các chiến dịch thuộc loại bình chọn" gây lũng đoạn các cuộc bình chọn Hottest 100 đang diễn ra.[154]

Học giả truyền thông Glen Fuller đã gọi chiến dịch #Tay4Hottest100 là một ví dụ về "hành động liên kết" trong thời đại truyền thông xã hội.[148] Fuller cũng cho rằng, chính sự xuất hiện của các "khung hành động" dành riêng bản thân trong việc thể hiện quan điểm cá nhân đan xen với một khung thông tin lớn hơn do các ấn phẩm truyền thông tạo ra đã dẫn đến những lập luận rời rạc và không mang lại kết quả rõ ràng.[155]

Kiện tụng

Tháng 11 năm 2015, một ca sĩ R&B mang tên Jessie Braham, nghệ danh là Jesse Graham, đã đệ đơn kiện Swift đạo nhái bài hát "Haters Gonna Hate" năm 2013 của anh ta và chỉ ra lời bài hát "Haters gone hate, playas gone play. Watch out for them fakers, they'll fake you everyday."[156][chú thích 8] Anh ta bảo rằng đoạn hook của Swift "giống như của tôi" và sẽ chẳng có "Shake It Off" nếu như anh "không viết ra phần lời 'Haters Gonna Hate' ".[157] Trong vụ kiện, Braham cáo buộc rằng hết 92% ca khúc "Shake It Off" của Swift có nguồn gốc từ bài hát của anh ta và yêu cầu Swift và hãng phân phối Sony phải bồi thường 42 triệu đô la Mỹ.[158] Ngày 12 tháng 11 năm 2015, vụ kiện tụng bị thẩm phán quận Gail Standish bác bỏ do Braham không cung cấp đủ bằng chứng thiết thực nhưng vẫn có thể đệ thêm một tờ đơn mới "nếu những thiếu sót trong vụ kiện của anh ta được sửa chữa".[158] Standish còn sử dụng lời bài hát trong các ca khúc "We Are Never Ever Getting Back Together", "Bad Blood", "Blank Space" và "Shake It Off" của Swift để đưa ra tuyên bố:

Hiện tại, Tòa án không nói rằng Braham không bao giờ (never, ever, ever) có thể đưa vụ việc của mình trở lại tòa án. Tuy nhiên, hiện tại, chúng tôi đang gặp phải những vấn đề (now, we have got problems) và Tòa án không chắc Braham có thể giải quyết được hết (can solve them) hay không. Như hiện giờ đang soạn thảo, Đơn khiếu nại có một khoảng trống (blank space) yêu cầu Braham phải làm nhiều việc hơn là chỉ viết tên của mình lên đó (write his name). Và, khi xem xét lời giải thích của Tòa án ... Braham có thể phát hiện ra rằng cầu xin băng cá nhân (BandAids) sẽ không chữa lành được vết đạn (fix the bullet holes) trong vụ án của anh ta. Ít nhất là ở thời điểm hiện tại, Bị đơn đã được bỏ qua (shaken off) vụ kiện này.[159]

Tháng 9 năm 2017, nhạc sĩ sáng tác bài hát Sean "Sep" Hall và Nate Butler kiện Swift vi phạm bản quyền và cho rằng phần lời của "Shake It Off" đã đạo nhái một bài hát mà họ viết cho nhóm nhạc nữ 3LW mang tựa đề "Playas Gon' Play" (2001). Họ còn dẫn ra lời bài hát, "Playas they gon' play, and haters they gonna hate / Ballers they gon' ball, shot callers they gonna call."[160][chú thích 9] Tháng 2 năm 2018, thẩm phán quận Michael W. Fitzgerald đã bác bỏ vụ kiện với lý do lời bài hát quá "tầm thường" để đăng ký bản quyền.[161] Tuy nhiên vào tháng 10 năm 2019, những thẩm phán khu vực John B. Owens, Andrew D. HurwitzKenneth K. Lee bên Tòa án phúc thẩm Khu vực Chín đã đảo ngược phán quyết, cho rằng tòa án quận đã "tự coi mình là thẩm phán cuối cùng về giá trị của một tác phẩm biểu đạt" và chuyển lại vụ việc cho tòa án liên bang.[162]

Đội ngũ pháp lý của Swift đã nộp các hồ sơ mới để bác bỏ vụ kiện vào tháng 7 năm 2020.[163] Vào tháng 7 năm 2021, họ đã đệ đơn xin phán quyết tóm tắt và tranh luận rằng giai đoạn tìm hiểu của vụ kiện đã đưa ra bằng chứng có lợi cho họ.[164] Vào ngày 9 tháng 12 năm 2021, Fitzgerald từ chối yêu cầu bản xét xử tóm tắt của Swift.[165] Nhóm pháp lý của Swift đã đệ đơn kiến nghị thứ hai để bác bỏ vụ kiện vào ngày 23 tháng 12, cho rằng phán quyết của Fitzgerald là "chưa từng có và trái với phạm vi công cộng" nếu nguyên đơn có thể kiện tất cả những người sử dụng cụm từ này trong bất kỳ sáng tác, ca hát hoặc chỉ cần thốt ra công khai.[166] Ngày 14 tháng 1 năm 2022, nhóm pháp lý của Hall và Butler đã đệ đơn phản hồi nêu rõ: "Các phán quyết chỉ đơn giản là không cung cấp cho bị cáo phương tiện để diễn giải lại các lập luận cũ và không nhằm mục đích cho đương sự không hài lòng thêm một cơ hội để gây ảnh hưởng đến thẩm phán."[167] Ngày 12 tháng 12 năm 2022, vụ kiện đã bị hủy bỏ mà không có phán quyết cuối cùng.[168]

Phiên bản hát lại và sử dụng

"Shake It Off" được Reese Witherspoon (trái) trong phim Đấu trường âm nhạc (2016) và Lupita Nyong'o trong Những đứa trẻ tinh nghịch (2019) hát lại.

"Shake It Off" đã được nhiều nhạc sĩ khác hát lại. Ca sĩ người Anh Labrinth biểu diễn bài hát tại Live Lounge của BBC Radio 1 vào ngày 20 tháng 9 năm 2014.[169] Nữ ca sĩ người Anh Charli XCX đã hát phiên bản mang cảm hứng từ punk rock cũng tại Live Lounge vào tháng 2 năm 2015,[170] và nhận về một đề cử cho Bài hát lại xuất sắc nhất tại giải mtvU Woodie năm 2015.[171] Ca sĩ nhạc rock Ryan Adams đã hát lại "Shake It Off" trong album cover từng bài trong 1989 của Swift và phát hành vào tháng 9 năm 2015. Bản cover của Adams kết hợp các nhạc cụ acoustic với đoạn trống dồn dập, và được các nhà phê bình đem so sánh với phiên bản bài hát "I'm on Fire" năm 1985 của Bruce Springsteen.[172][173][174]

"Shake It Off" còn xuất hiện trong các tác phẩm nhại lại và tôn vinh. Trong một tập Lip Sync Battle vào tháng 4 năm 2015, diễn viên Dwayne "The Rock" Johnson đã nhép môi "Shake It Off" cùng với bài hát "Stayin' Alive" năm 1977 của Bee Gees và đánh bại được Jimmy Fallon.[175] Một tập phim mang tựa đề "Chris Has Got a Date, Date, Date, Date, Date" bên Family Guy có chứa nhân vật hư cấu của Swift được phát sóng vào ngày 6 tháng 11 năm 2016. Tiêu đề của tập phim được chơi chữ theo lời bài hát "Shake It Off".[176] Nữ diễn viên Reese Witherspoon và nghệ sĩ hài Nick Kroll đã hát phiên bản "Shake It Off" pha trộn thêm yếu tố phụ EDM trong nhạc phim của bộ phim hoạt hình Đấu trường âm nhạc (2016).[177] "Shake It Off" cũng được diễn viên người Mexico-Kenya Lupita Nyong'o trình diễn bằng ukulele trong phim Những đứa trẻ tinh nghịch (2019).[178] Các diễn viên chương trình truyền hình Zoey's Extraordinary Playlist năm 2020 đã hát lại ca khúc ở tập cuối mùa thứ hai.[179]

Tại Việt Nam vào tháng 6 năm 2018, người mẫu Hà Thu đã góp mặt trong chương trình Gương mặt thân quen mùa 6 tập 2, hóa trang thành Swift và cho rằng "đọc rap thì em sợ là sẽ hay hơn [Swift]". Cô biểu diễn "Shake It Off" giống như nữ ca sĩ người Mỹ tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2014. Tuy nhiên, màn trình diễn đã bị khán giả tại Việt Nam gọi là "thảm họa" vì Hà Thu hát "dở kinh khủng" do phát âm tiếng Anh sai, hụt hơi, lạc tông so với bản gốc hoặc người mẫu vẫn chưa thể hiện hết được "thần thái kiêu kỳ, đỏng đảnh" của Swift.[180]

Đội ngũ sản xuất

Thông tin phần ghi công được lấy từ phần ghi chú của 1989.[15]

Bảng xếp hạng

Chứng nhận

Chứng nhận của "Shake It Off"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[68] 18× Bạch kim 1.260.000double-dagger
Áo (IFPI Áo)[268] Vàng 15.000*
Bỉ (BEA)[269] Vàng 20.000double-dagger
Brasil (Pro-Música Brasil)[270] 3× Kim cương 750.000double-dagger
Canada (Music Canada)[69] 6× Bạch kim 480.000*
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[271] Bạch kim 90.000double-dagger
Đức (BVMI)[272] Vàng 150.000double-dagger
Ý (FIMI)[273] Bạch kim 30.000double-dagger
Nhật Bản (RIAJ)[73] 3× Bạch kim 750.000*
México (AMPROFON)[274] Vàng 30.000*
New Zealand (RMNZ)[275] 5× Bạch kim 150.000double-dagger
Na Uy (IFPI)[276] 2× Bạch kim 120.000double-dagger
Bồ Đào Nha (AFP)[277] Vàng 10.000double-dagger
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[278] 2× Bạch kim 120.000double-dagger
Thụy Điển (GLF)[279] Bạch kim 20.000double-dagger
Thụy Sĩ (IFPI)[280] Bạch kim 30.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[72] 4× Bạch kim 2.400.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[66] Kim cương 10.000.000double-dagger
Phát trực tuyến
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[281] Vàng 1.300.000dagger
Nhật Bản (RIAJ)[282] Bạch kim 100.000.000dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.
dagger Chứng nhận dựa theo doanh số phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

Ngày phát hành và định dạng của "Shake It Off"
Khu vực Ngày Định dạng Hãng Chú thích
Nhiều 19 tháng 8 năm 2014 Tải kỹ thuật số Big Machine [36]
Hoa Kỳ Đài phát thanh hit đương đại
[37]
Ý 29 tháng 8 năm 2014 Đài phát thanh Universal [40]
Nhiều 11 tháng 9 năm 2014 Đĩa đơn CD Big Machine [38]
Đức 10 tháng 10 năm 2014 Universal [41]

"Shake It Off (Taylor's Version)"

"Shake It Off (Taylor's Version)"
Bài hát của Taylor Swift
từ album 1989 (Taylor's Version)
Phát hành27 tháng 10 năm 2023 (2023-10-27)
Phòng thuPrime Recording (Nashville)
Thời lượng3:39
Hãng đĩaRepublic
Sáng tác
Sản xuất
Lyric video
"Shake It Off (Taylor's Version)" trên YouTube

Năm 2018, Swift chia tay với Big Machine và ký bản hợp đồng mới với Republic Records.[283] Tuy nhiên, cô đã vướng phải một cuộc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào giữa năm 2019 với người quản lý tài năng Scooter Braun, nguyên nhân bắt nguồn từ việc Braun đã mua lại Big Machine Records kèm theo các bản thu hoàn chỉnh những album trước đó của nữ ca sĩ dưới sự phát hành từ phía hãng đĩa cũ.[284] Sau khi cân nhắc lựa chọn thì cuối cùng, Swift quyết định tái thu âm sáu album phòng thu đầu tiên vào tháng 11 năm 2020.[285][286] Bằng việc tái thu âm, Swift sẽ có toàn bộ quyền sở hữu bản thu mới, cho phép cô tự cấp phép chính mình sử dụng những bản nhạc tái thu âm với mục đích thương mại và hy vọng thay thế được các phiên bản thuộc quyền sở hữu của Big Machine.[287] Swift phân loại các bản tái thu âm bằng hậu tố "Taylor's Version".[288]

Phiên bản tái thu âm của "Shake It Off" với hậu tố "Taylor's Version" được phát hành trong album tái thu âm của 1989 với nhan đề 1989 (Taylor's Version) vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.[289] Swift sản xuất "Shake It Off (Taylor's Version)" cùng với Christopher Rowe, đồng thời Rowe cũng là người đã giúp cô sản xuất các bản tái thu âm trước đó.[290] Bài hát do Derek Garten và Lowell Reynolds phụ trách khâu kỹ thuật tại Prime Recording Studio ở Nashville, Tennessee; Ghenea trộn nhạc ở MixStar Studios bên Virginia Beach, Virginia; Randy Merrill thực hiện công đoạn master bên Sterling SoundEdgewater, New Jersey. Rowe và Sam Holland thu âm giọng ca của Swift tại Conway Recording Studios bên Los Angeles và Kitty Committee Studio bên New York.[291]

Đội ngũ sản xuất

Thông tin phần ghi công được lấy từ phần ghi chú của 1989 (Taylor's Version).[291]

Kỹ thuật

  • Taylor Swift – sản xuất
  • Bryce Bordone – kỹ thuật trộn nhạc
  • Mattias Bylund – thu âm kèn, chỉnh sửa kèn
  • Derek Garten – kỹ thuật, lập trình bổ sung, chỉnh sửa
  • Serban Ghenea – trộn nhạc
  • Sam Holland – thu âm giọng hát
  • Lowell Reynolds – kỹ thuật, lập trình bổ sung, chỉnh sửa
  • Christopher Rowe – thu âm giọng hát, sản xuất

Nhạc sĩ

  • Taylor Swift – giọng hát, hát đệm, sáng tác
  • Robert Allen – giậm chân, vỗ tay, hát đệm
  • Max Bernstein – kèn synth
  • Matt Billingslea – bộ gõ
  • Janne Bjerger – trumpet
  • Mattias Bylund – kèn synth, chỉ huy hợp xướng
  • Wojtek Goral – alto saxophone, baritone saxophone
  • Amos Heller – bass
  • Peter Noos Johansson – trombone, tuba
  • Magnus Johansson – trumpet
  • Tomas Jönsson – baritone saxophone, tenor saxophone
  • Max Martin – sáng tác
  • Mike Meadows – đánh đàn tổng hợp, hát đệm
  • Christopher Rowe – trumpet, hát đệm
  • Paul Sidoti – guitar điện, hát đệm
  • Shellback – sáng tác, trống, laser harp

Bảng xếp hạng

Bảng xếp hạng của "Shake It Off (Taylor's Version)"
Bảng xếp hạng (2023) Vị trí
cao nhất
Úc (ARIA)[292] 18
Canada (Canadian Hot 100)[293] 24
Global 200 (Billboard)[294] 21
Hy Lạp International (IFPI)[295] 36
New Zealand (Recorded Music NZ)[296] 27
Philippines (Billboard)[297] 22
Thụy Điển Heatseeker (Sverigetopplistan)[298] 4
Anh Quốc Download (Official Charts Company)[299] 46
Anh Quốc Singles Sales (OCC)[300] 53
Anh Quốc Streaming (OCC)[301] 26
Hoa Kỳ Billboard Hot 100[302] 28
Việt Nam (Vietnam Hot 100)[303] 94

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Tạm dịch: "Tôi hẹn hò hết người này đến người khác / Nhưng tôi không giữ được ai ở lại / Ít ra đó là điều thiên hạ nói về tôi."
  2. ^ Tạm dịch: "Vì dân chơi là phải chơi, chơi, chơi, chơi, chơi / Những người ghét tôi thì cứ việc ghét, ghét, ghét, ghét, ghét / Bạn yêu à, tôi chỉ việc kệ, kệ, kệ, kệ, kệ."
  3. ^ Tạm dịch: "Thay vì cứ mãi phiền lòng khi gặp những trò lừa gạt bẩn thỉu trên đời... thì bạn nên tập trung tận hưởng bằng giai điệu hết sảy con bà bảy này."
  4. ^ Tạm dịch: "Nàng đã nhảy nhót để quên đi chàng."
  5. ^ Wilkinson dùng từ "điên rồ" (zany) để diễn tả Swift là "một con người nhấn mạnh 'biểu diễn' pop là một trong những việc khó khăn vất vả, vì cô đã làm lộ ra kết cấu của thể loại đó là một thứ không hề 'tự nhiên' mà có được".[89]
  6. ^ Dubrofsky đã lấy ví dụ Simone Browne để cho rằng "giám sát phân biệt chủng tộc" là "một công nghệ kiểm soát xã hội trong đó các thực hiện, chính sách và hoạt động giám sát có liên quan tới việc tạo ra các chuẩn mực tương quan với chủng tộc. Đây còn là công nghệ giúp thực hiện một loại quyền lực nhằm xác định điều gì là đúng, điều gì là sai."[94]
  7. ^ Triple J Hottest 100 là một chiến dịch bình chọn thường niên nhằm lựa ra 100 bài hát nổi bật nhất của đài phát thanh Úc Triple J.[143]
  8. ^ Tạm dịch: "Bọn ghét thì cứ mà ghét, kẻ chơi thì cứ việc chơi. Cẩn thận với lũ giả tạo, chúng nó sẽ lừa mày mỗi ngày."
  9. ^ Tạm dịch: "Dân chơi thì chơi, kẻ ghét thì cứ ghét / Người mê bóng bầu dục thì chơi rất hăng hái, những kẻ gọi rượu thì gọi ly này đến ly khác."

Tham khảo

  1. ^ a b McNutt 2020, tr. 77.
  2. ^ Caulfield, Keith (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's Red Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002” [Album Red của Taylor Swift bán được 1,21 triệu bản; Tuần bán album lớn nhất kể từ năm 2002]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ McNutt 2020, tr. 77–78.
  4. ^ Doyle, Patrick (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “Taylor Swift: 'Floodgates Open' for Next Album” [Taylor Swift: 'mở cửa lũ' cho album tiếp theo]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ Perone 2017, tr. 2.
  6. ^ Vinson, Christina (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift on Turning Away from Country Music on '1989' [Taylor Swift từ bỏ nhạc đồng quê trong '1989']. Taste of Country (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ McNutt 2020, tr. 78.
  8. ^ Talbott, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album, CMAs and Ed Sheeran” [Taylor Swift nói về album tiếp theo, CMA và Ed Sheeran] (bằng tiếng Anh). Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ Eells, Josh (ngày 16 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Five Things to Expect on 1989 [Taylor Swift tiết lộ 5 điều đáng mong đợi ở 1989]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ Sisario, Ben (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Sales of Taylor Swift's 1989 Intensify Streaming Debate” [Doanh số bán album 1989 của Taylor Swift làm tăng thêm cuộc tranh luận về phát nhạc trực tuyến]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  11. ^ a b Lipshutz, Jason (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Is Going Pop. And That's a Good Thing” [Taylor Swift đang theo đuổi nhạc pop. Và đó là một điều tốt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ Pettifer, Amy (ngày 27 tháng 11 năm 2014). “Reviews: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. The Quietus (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  13. ^ Perone 2017, tr. 55–56.
  14. ^ a b c Zollo, Paul (ngày 13 tháng 2 năm 2016). “The Oral History of Taylor Swift's 1989 [Lịch sử truyền miệng album 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024 – qua Cuepoint.
  15. ^ a b c d Taylor Swift (ngày 27 tháng 10 năm 2014). Digital Booklet – 1989 [Tập sách nhỏ kỹ thuật số – 1989]. 1989 (Deluxe Edition) (bằng tiếng Anh). Big Machine Records. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024 – qua iTunes Store. Ghi chú: Phần lời bài hát và ghi công của "Shake It Off" nằm ở trang 5.
  16. ^ Millman, Ethan (ngày 9 tháng 8 năm 2022). “Taylor Swift On 'Shake It Off' Lawsuit: 'The Lyrics Were Written Entirely By Me' [Taylor Swift trong vụ kiện 'Shake It Off': 'Lời bài hát hoàn toàn do tôi viết']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  17. ^ Savage, Mark (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift's biggest album 1989 returns with new tracks from the vault” [Album lớn nhất của Taylor Swift 1989 trở lại với những ca khúc mới vừa lấy ra từ trong két sắt] (bằng tiếng Anh). BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  18. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Taylor Swift – Artist Biography” [Taylor Swift – Tiểu sử nghệ sĩ] (bằng tiếng Anh). AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  19. ^ a b Wood, Mikael (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Listen: Taylor Swift releases 'Shake It Off,' from new album '1989' [Nghe: Taylor Swift phát hành 'Shake It Off', từ album mới '1989']. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  20. ^ Nobile 2015, tr. 200.
  21. ^ a b “Taylor Swift's 'Shake It Off' ['Shake It Off' của Taylor Swift]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  22. ^ a b Terich, Jeff (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Track Review: Taylor Swift, 'Shake It Off' [Đánh giá ca khúc: Taylor Swift, 'Shake It Off']. American Songwriter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  23. ^ Feeney, Nolan (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Watch Taylor Swift Show Off Her Dance Moves in New 'Shake It Off' Video” [Xem Taylor Swift thể hiện những bước nhảy của cô ấy trong video 'Shake It Off' mới]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  24. ^ a b c d e Kreps, Daniel (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Dismisses the Haters in New Song 'Shake It Off' [Taylor Swift cho những kẻ ghét bỏ ăn trái "bơ" trong bài hát mới 'Shake It Off']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  25. ^ a b Block, Melissa (ngày 31 tháng 10 năm 2014). 'Anything That Connects': A Conversation With Taylor Swift” ['Bất cứ điều gì kết nối': Cuộc trò chuyện với Taylor Swift] (Bản âm thanh tải lên và có phần lời) (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  26. ^ Ezell, Brice; Sawdey, Evan (ngày 21 tháng 9 năm 2017). “The Flipside #7: Taylor Swift's '1989' [Mặt trái #7: '1989' của Taylor Swift]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  27. ^ a b c Molanphy, Chris (ngày 29 tháng 8 năm 2014). “Why Is Taylor Swift's 'Shake It Off' No. 1?” [Vì sao 'Shake It Off' của Taylor Swift đứng số 1?]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  28. ^ a b c Vincent, Peter (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift laughs off critics, but can't match boy bands” [Taylor Swift cười nhạo giới phê bình nhưng không thể sánh bằng nhóm nhạc nam]. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  29. ^ a b Roberts, Randall (ngày 20 tháng 8 năm 2014). “Critic's Notebook Taylor Swift's catchy, tone-deaf 'Shake It Off' [Cuốn sổ tay của nhà phê bình bàn tán ca khúc 'Shake It Off' hấp dẫn nhưng tông điếc của Taylor Swift]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  30. ^ a b c Jones, Nate (ngày 13 tháng 8 năm 2020). “All 162 Taylor Swift Songs, Ranked” [Tất cả 162 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  31. ^ “Taylor Swift trademarks 'sick beat' [Taylor Swift đăng ký thương hiệu 'sick beat'] (bằng tiếng Anh). BBC. ngày 29 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  32. ^ Ahlgrim, Callie (ngày 2 tháng 11 năm 2023). “13 fun facts about Taylor Swift's '1989' that you may not know” [13 sự thật thú vị về '1989' của Taylor Swift có thể bạn chưa biết]. Business Insider (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2024.
  33. ^ Strecker, Erin (ngày 7 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Drops Two More Clues About New Music” [Taylor Swift tiết lộ thêm hai manh mối về âm nhạc mới]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  34. ^ Koerber, Brian (ngày 14 tháng 8 năm 2014). “Ew, Taylor Swift Plays 'Show and Tell' With Jimmy Fallon” [Ôi ghê chưa, Taylor Swift chơi 'Show and Tell' với Jimmy Fallon]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  35. ^ Payne, Chris (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Reveals New Album Title, Release Date & 'Shake It Off' Video” [Taylor Swift tiết lộ tên album mới, ngày phát hành và video 'Shake It Off']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  36. ^ a b “Shake It Off (2014)” [Shake It Off (2014)] (bằng tiếng Anh). 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  37. ^ a b “Top 40/M Future Releases” [Các bản phát hành Top 40/M tương lai] (bằng tiếng Anh). All Access Music Group. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  38. ^ a b “Limited edition 'Shake It Off' Single CD” [Đĩa đơn 'Shake It Off' phiên bản giới hạn] (bằng tiếng Anh). Taylorswift.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  39. ^ “BBC Radio 1 Playlist” [Danh sách phát của BBC Radio 1] (bằng tiếng Anh). BBC Radio 1. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  40. ^ a b Mompellio, Gabriel (ngày 26 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift – Shake It Off (Radio Date: 29-08-2014)” [Taylor Swift – Shake It Off (Ngày phát thanh: 29-08-2014)] (bằng tiếng Ý). Universal Music Group. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  41. ^ a b “Shake It Off (CD)” [Shake It Off (đĩa CD)] (bằng tiếng Đức). Universal Music Group. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  42. ^ Willis, Charlotte (ngày 20 tháng 8 năm 2014). “Shake It Off, Taylor Swift's new single falls flat in reviews” [Shake It Off, đĩa đơn mới của Taylor Swift không được đánh giá cao] (bằng tiếng Anh). News.com.au. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  43. ^ Vincent, Alice (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's new single Shake It Off shakes up pop music” [Đĩa đơn mới Shake It Off của Taylor Swift làm rung chuyển làng nhạc pop]. The Daily Telegraph (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  44. ^ Lamb, Bill. “Taylor Swift - "Shake It Off" [Đánh giá bài hát "Shake It Off" của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
  45. ^ a b Fitzpatrick, Molly (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's Shake it Off video falls flat” [Video Shake it Off của Taylor Swift gặp thất bại thảm hại]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  46. ^ Lipshutz, Jason (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's Shake It Off: Single Review” [Shake It Off của Taylor Swift: Đánh giá đĩa đơn]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  47. ^ Petridis, Alexis (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 review – leagues ahead of the teen-pop competition” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – dẫn đầu cuộc cạnh tranh nhạc pop tuổi teen]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  48. ^ Unterberger, Andrew (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Gets Clean, Hits Reset on New Album '1989' [Taylor Swift trở nên Clean, làm mới loạt hit trong album mới '1989']. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  49. ^ Lipshutz, Jason (ngày 11 tháng 12 năm 2019). “Taylor Swift: Billboard's Woman of the Decade Cover Story” [Taylor Swift: Câu chuyện trang bìa Người phụ nữ thập kỷ của Billboard]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  50. ^ Mylrea, Hannah (ngày 8 tháng 9 năm 2020). “Every Taylor Swift song ranked in order of greatness” [Mỗi bài hát của Taylor Swift được xếp theo thứ tự hay tăng dần]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  51. ^ Sheffield, Rob (ngày 24 tháng 11 năm 2020). “All 173 of Taylor Swift's Songs, Ranked” [Tất cả 173 bài hát của Taylor Swift, xếp hạng]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  52. ^ Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's singles – ranked!” [Đĩa đơn của Taylor Swift – xếp hạng!]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  53. ^ Song, Jane (ngày 11 tháng 2 năm 2020). “All 158 Taylor Swift Songs, Ranked” [Tất cả 158 bài hát của Taylor Swift, xếp hạng]. Paste (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2024.
  54. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Turns Radio on With 'Shake It Off' [Taylor Swift làm huyên náo radio với 'Shake It Off']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  55. ^ Trust, Gary (ngày 20 tháng 8 năm 2014). “Ariana Grande, Iggy Azalea Triple Up in Hot 100's Top 10, MAGIC! Still No. 1” [Ariana Grande, Iggy Azalea thăng hạng gấp ba lần trong top 10 Hot 100, MAGIC! vẫn là số 1]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  56. ^ a b Trust, Gary (ngày 25 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Makes Record Start at Radio” ['Shake It Off' của Taylor Swift lập kỷ lục ngay từ lúc vừa mới lên sóng đài phát thanh]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  57. ^ Trust, Gary; Asker, Jim (ngày 17 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift's 'New Year's Day' Goes to Country Radio: Is Country Ready for It?” ['New Year's Day' của Taylor Swift lên đài phát thanh đồng quê: Đồng quê đã sẵn sàng cho bài hát chưa?]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  58. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100” ['Shake It Off' của Taylor Swift ra mắt ở vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  59. ^ Trust, Gary (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Returns to No. 1 on Hot 100” ['Shake It Off' của Taylor Swift trở lại vị trí số 1 trên Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  60. ^ Trust, Gary (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Still No. 1 on Hot 100, Ariana Grande & The Weeknd Hit Top 10” [Taylor Swift vẫn No.1 Hot 100, Ariana Grande & The Weeknd lọt top 10]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  61. ^ a b "Taylor Swift Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  62. ^ Grein, Paul (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “It's Official: Pharrell Has 2014's Best-Selling Song” [Đây là chính thức: Pharrell có bài hát bán chạy nhất năm 2014] (bằng tiếng Anh). Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  63. ^ “Decade-End Report” [Báo cáo cuối thập niên] (PDF) (bằng tiếng Anh). Nielsen SoundScan. tr. 39. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  64. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 2 năm 2024). “Taylor Swift's 50 Biggest Billboard Hot 100 Hits” [50 bản hit Billboard lớn nhất của Taylor Swift trên bảng Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  65. ^ “Taylor Swift Chart History (Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  66. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  67. ^ McIntyre, Hugh (ngày 17 tháng 3 năm 2020). “Taylor Swift Is Now The First Solo Female Musician With A Diamond Single And Album” [Taylor Swift giờ đây đã trở thành nhạc sĩ nữ đơn ca đầu tiên sở hữu cả đĩa đơn lẫn album đạt chứng nhận Kim cương]. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  68. ^ a b “Jan 2024 Single Accreds” [Chứng nhận đĩa nhạc Úc tháng 1 năm 2024] (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  69. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  70. ^ a b "Charts.nz – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  71. ^ Copsey, Rob (ngày 1 tháng 1 năm 2015). “The Official Top 40 Biggest Selling Singles of 2014” [Top 40 đĩa đơn bán chạy nhất năm 2014 của Official] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2024.
  72. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  73. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn kỹ thuật số Nhật Bản – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024. Chọn 2017年2月 ở menu thả xuống
  74. ^ a b "Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video" (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay Top 100. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  75. ^ a b "Spanishcharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  76. ^ a b "The Irish Charts – Search Results – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  77. ^ a b "Norwegiancharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  78. ^ a b "Swedishcharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  79. ^ a b "Danishcharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  80. ^ a b "Taylor Swift – Shake It Off Media Forest" (bằng tiếng Israel). Israeli Airplay Chart. Media Forest. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024 – qua Wayback Machine.
  81. ^ a b "Musicline.de – Taylor Swift Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  82. ^ a b "Nederlandse Top 40 – Taylor Swift" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  83. ^ a b Cho, Diane (ngày 20 tháng 8 năm 2014). “A Breakdown of Every Cultural Reference in Taylor Swift's 'Shake It Off' Music Video” [Phân tích mọi ám chỉ về văn hóa trong Video nhạc 'Shake It Off' của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). VH1. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  84. ^ a b Dubrofsky 2016, tr. 192.
  85. ^ Leight, Elias (ngày 15 tháng 10 năm 2014). “How Taylor Swift Got Mark Romanek to Direct 'Shake It Off' [Cách Taylor Swift mời Mark Romanek đạo diễn 'Shake It Off']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2024.
  86. ^ a b Michaels, Sean (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift announces new album details and single Shake It Off” [Taylor Swift công bố chi tiết album mới và đĩa đơn Shake It Off]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  87. ^ a b Buchanan, Kyle (ngày 21 tháng 8 năm 2014). “Mark Romanek on Directing Taylor Swift's New Video 'Shake It Off' [Mark Romanek đạo diễn video mới 'Shake It Off' của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  88. ^ Sacks, Ethan (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift reveals new album '1989,' video for first single 'Shake It Off' [Taylor Swift tiết lộ album mới '1989', video cho đĩa đơn đầu tiên 'Shake It Off']. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  89. ^ Wilkinson 2017, tr. 441.
  90. ^ Wilkinson 2017, tr. 442.
  91. ^ a b Wilkinson 2017, tr. 443.
  92. ^ Hasty, Katie (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's new video 'Shake It Off' features twerking, ballet, haters” [Video mới 'Shake It Off' của Taylor Swift có màn nhảy múa, múa ba lê và những kẻ thù ghét]. HitFix (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  93. ^ Smith, Troy (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' video sparks accusations of racism on Twitter” [Video 'Shake It Off' của Taylor Swift làm dấy lên cáo buộc phân biệt chủng tộc trên Twitter]. The Plain Dealer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  94. ^ Dubrofsky 2016, tr. 191.
  95. ^ Dubrofsky 2016, tr. 193.
  96. ^ Butler, Bethonie; Stahl, Jessica (ngày 22 tháng 8 năm 2014). “Is Taylor Swift's 'Shake It Off' music video offensive? That's what people say, mmm mmm” [Video âm nhạc 'Shake It Off' của Taylor Swift có gây phản cảm không? Đó là những gì người ta nói, mmm mmm]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  97. ^ Bueno, Antoinette (ngày 22 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Video Director Hits Back at Racist Claims” [Đạo diễn video 'Shake It Off' của Taylor Swift đáp lại những tuyên bố phân biệt chủng tộc]. Entertainment Tonight (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  98. ^ “The 50 best songs of 2014” [50 bài hát hay nhất năm 2014]. Time Out (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  99. ^ “The 75 Best Songs of 2014” [75 bài hát hay nhất năm 2014]. PopMatters (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  100. ^ “Pazz & Jop: 2014 Singles (All Votes)” [Pazz & Jop: Đĩa đơn của năm 2014 (Tất cả phiếu bầu)]. The Village Voice (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  101. ^ “Top 50 Songs of 2014” [50 bài hát hay nhất năm 2014]. Consequence (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  102. ^ Leedham, Robert (ngày 8 tháng 12 năm 2014). Drowned in Sound's 40 Favourite Songs of 2014” [40 ca khúc được yêu thích năm 2014 của Drowned in Sound]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  103. ^ “Her er listene over den beste musikken i 2014” [Dưới đây là danh sách những bản nhạc hay nhất năm 2014]. Dagsavisen (bằng tiếng Na Uy). ngày 12 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  104. ^ Barker, Emily (ngày 24 tháng 11 năm 2014). “50 Top Tracks of 2014” [50 ca khúc hàng đầu năm 2014]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  105. ^ “The Best Songs Of The Decade: The 2010s” [Những bài hát hay nhất thập kỷ: Những năm 2010]. NME (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  106. ^ “Top 100 Songs of the 2010s” [100 bài hát hay nhất của thập niên 2010]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  107. ^ Ryan, Patrick. “10 songs that defined the 2010s in music” [10 bài hát định nghĩa âm nhạc thập niên 2010]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  108. ^ “Taylor Swift Earns 7th Songwriter/Artist of the Year Award” [Taylor Swift giành giải Nhạc sĩ sáng tác bài hát/Nghệ sĩ của năm lần thứ 7] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội nhạc sĩ sáng tác bài hát quốc tế Nashville. ngày 11 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  109. ^ “Ten Songs I Wish I'd Written” [Mười bài hát mà tôi ước gì mình đã viết] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội nhạc sĩ sáng tác bài hát quốc tế Nashville. ngày 11 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  110. ^ “BMI Honors Taylor Swift and Legendary Songwriting Duo Mann & Weil at the 64th Annual BMI Pop Awards” [BMI tôn vinh Taylor Swift và bộ đôi sáng tác huyền thoại Mann & Weil tại lễ trao giải BMI Pop thường niên lần thứ 64] (bằng tiếng Anh). Broadcast Music, Inc. ngày 11 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  111. ^ “Grammys 2015: See the Full Winners List” [Grammy 2015: Xem danh sách đầy đủ người chiến thắng]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  112. ^ Billboard Music Awards 2015: See the Full Winners List” [Giải thưởng Âm nhạc Billboard 2015: Xem danh sách đầy đủ người chiến thắng]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 17 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  113. ^ “2015 iHeartRadio Music Awards: Full Winners List” [Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio 2015: Danh sách người chiến thắng đầy đủ] (bằng tiếng Anh). iHeartRadio. ngày 29 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  114. ^ “Myx Music Awards 2015 Winners” [Người chiến thắng Giải thưởng Âm nhạc Myx 2015] (bằng tiếng Anh). Myx. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  115. ^ “Nominees & Winners” [Người được đề cử và người chiến thắng] (bằng tiếng Anh). People's Choice Awards. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  116. ^ “Kids' Choice Awards 2015: The Complete Winners List” [Giải thưởng lựa chọn của trẻ em 2015: Danh sách người chiến thắng hoàn chỉnh]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  117. ^ “Winners of Teen Choice 2015 Announced” [Người chiến thắng giải Teen Choice 2015 được công bố] (bằng tiếng Anh). Teen Choice Awards. ngày 16 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  118. ^ “Nominerade & vinnare i Rockbjörnen 2015” [Những người được đề cử và chiến thắng tại Rockbjörnen 2015]. Aftonbladet (bằng tiếng Thụy Điển). ngày 11 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  119. ^ Gajewski, Ryan (ngày 26 tháng 4 năm 2015). “Taylor Swift, Ariana Grande Win Big at Radio Disney Music Awards” [Taylor Swift, Ariana Grande giành chiến thắng lớn tại giải thưởng Âm nhạc Radio Disney]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  120. ^ “Premios 40 Principales 2015” [Giải thưởng Top 40 năm 2015] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Los 40 Principales. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  121. ^ Lee, Ashley (ngày 24 tháng 8 năm 2014). “VMAs: Taylor Swift Refuses to Jump in 'Shake It Off' Debut Performance” [VMAs: Taylor Swift từ chối nhảy từ trên cao xuống sân khấu trong màn trình diễn ra mắt 'Shake It Off']. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  122. ^ Chau, Thomas (ngày 4 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Performs 'Shake It Off' at the 2014 German Radio Awards” [Taylor Swift biểu diễn 'Shake It Off' tại giải thưởng đài phát thanh của Đức 2014]. PopCrush (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  123. ^ Gracie, Bianca (ngày 12 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift biểu diễn 'Shake It Off' tại 'The X Factor UK' (bằng tiếng Anh). Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  124. ^ Daw, Robbie (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Performs 'Shake It Off' On 'The X Factor' Australia” [Taylor Swift biểu diễn 'Shake It Off' tại 'The X Factor' Úc] (bằng tiếng Anh). Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  125. ^ Dockterman, Eliana (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Watch Taylor Swift Perform 'Out of the Woods' on Jimmy Kimmel Live!” [Xem Taylor Swift biểu diễn 'Out of the Woods' trong chương trình Jimmy Kimmel Live!]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  126. ^ Lee, Ashley (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Teases '1989' Tour During 'Good Morning America' Concert” [Taylor Swift giới thiệu chuyến lưu diễn '1989' trong buổi hòa nhạc 'Good Morning America']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  127. ^ Stutz, Colin (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Live-Broadcasts Manhattan Rooftop Secret Session” [Taylor Swift phát sóng trực tiếp Secret Session trên sân thượng Manhattan]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  128. ^ Lipshutz, Jason (ngày 20 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Shakes Off the 'Frenemies' During iHeartRadio Fest Performance: Watch” [Taylor Swift kệ 'bạn thù' trong buổi biểu diễn tại nhạc hội iHeartRadio: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  129. ^ Edwards, Gavin (ngày 25 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, Ariana Grande and Gwen Stefani Cover the Hollywood Bowl in Glitter” [Taylor Swift, Ariana Grande và Gwen Stefani phủ sóng Hollywood với bộ trang phục lấp lánh]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  130. ^ Stutz, Colin (ngày 6 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Beats Laryngitis, Sam Smith, Ariana Grande Shine at KIIS FM Jingle Ball” [Taylor Swift đánh bại Laryngitis, Sam Smith, Ariana Grande để tỏa sáng tại KIIS FM Jingle Ball]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  131. ^ Stedman, Alex (ngày 16 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift, Paul McCartney, Prince Jam at 'SNL' Anniversary Special After-Party (Video)” [Taylor Swift, Paul McCartney, Prince Jam tại bữa tiệc đặc biệt kỷ niệm 'SNL' (Video)]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  132. ^ Yahr, Emily (ngày 5 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift '1989' World Tour: Set list, costumes, the stage, the spectacle” [Taylor Swift '1989' World Tour: Danh sách tiết mục, trang phục, sân khấu, cảnh tượng]. The Washington Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  133. ^ Britton, Luke Morgan (ngày 9 tháng 5 năm 2018). “Taylor Swift joined by Camila Cabello and Charli XCX for 'Shake It Off' at 'Reputation' stadium tour opener” [Taylor Swift cùng với Camila Cabello và Charli XCX biểu diễn 'Shake It Off' tại buổi khai mạc chuyến lưu diễn tại sân vận động 'Reputation']. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  134. ^ Shafer, Ellise (ngày 18 tháng 3 năm 2023). “Taylor Swift Eras Tour: The Full Setlist From Opening Night (Updating Live)” [Taylor Swift Eras Tour: Danh sách tiết mục đầy đủ từ đêm khai mạc (Cập nhật trực tiếp)]. Variety (bằng tiếng Anh). ISSN 0042-2738. OCLC 810134503. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  135. ^ Brandle, Lars (ngày 24 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift Took Some of the World's Biggest Stars Down Memory Lane With This Performance” [Taylor Swift đã hạ gục một số ngôi sao lớn nhất thế giới bằng màn trình diễn này]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  136. ^ Iasimone, Ashley (ngày 25 tháng 5 năm 2019). “Taylor Swift Performs 'Shake It Off' & 'ME!' on 'The Voice' in France: Watch” [Taylor Swift biểu diễn 'Shake It Off' & 'ME!' trên 'The Voice' ở Pháp: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  137. ^ Willman, Chris (ngày 2 tháng 6 năm 2019). “Taylor Swift Goes Full Rainbow for Pride Month at L.A. Wango Tango Show” [Taylor Swift mang sắc cầu vồng trọn vẹn cho Tháng tự hào tại L.A. Wango Tango Show]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  138. ^ Mylrea, Hannah (ngày 10 tháng 9 năm 2019). “Taylor Swift's The City of Lover concert: a triumphant yet intimate celebration of her fans and career” [Buổi hòa nhạc The City of Lover của Taylor Swift: một lễ kỷ niệm vừa thành công vừa thân mật dành cho người hâm mộ và sự nghiệp của cô]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  139. ^ Aniftos, Rania (ngày 20 tháng 10 năm 2019). “Taylor Swift, Billie Eilish & More Supported a Great Cause at 7th Annual We Can Survive Concert: Recap” [Taylor Swift, Billie Eilish và nhiều người khác đã ủng hộ một mục đích lớn lao tại buổi hòa nhạc We Can Survive thường niên lần thứ 7: Tóm tắt]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  140. ^ Gracie, Bianca (ngày 24 tháng 11 năm 2019). “Taylor Swift Performs Major Medley Of Hits, Brings Out Surprise Guests For 'Shake It Off' at 2019 AMAs” [Taylor Swift biểu diễn liên khúc hit lớn, mang đến khách mời bất ngờ với 'Shake It Off' tại AMAs 2019]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  141. ^ Iasimone, Ashley (ngày 8 tháng 12 năm 2019). “Taylor Swift Performs 'Christmas Tree Farm' Live for the First Time at Capital FM's Jingle Bell Ball: Watch” [Taylor Swift biểu diễn trực tiếp 'Christmas Tree Farm' lần đầu tiên tại Jingle Bell Ball của Capital FM: Xem]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  142. ^ Mastrogiannis, Nicole (ngày 14 tháng 12 năm 2019). “Taylor Swift Brings Holiday Cheer to Jingle Ball with "Christmas Tree Farm" [Taylor Swift mang đến niềm vui ngày lễ cho Jingle Ball với "Christmas Tree Farm"] (bằng tiếng Anh). iHeartRadio. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  143. ^ Fuller 2017, tr. 170.
  144. ^ a b c Carniel, Jessica (ngày 30 tháng 4 năm 2016). “Triple J's Hottest” [Hottest của Triple J] (PDF) (bằng tiếng Anh). Đại học Nam Queensland. tr. 42. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  145. ^ Fuller 2017, tr. 167.
  146. ^ Tan, Monica; Hunt, Elle; Seidler, Jonno; Paddy, Chelsea (ngày 14 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift fans invade Triple J Hottest 100 – and five songs that deserve No 1” [Người hâm mộ của Taylor Swift xâm lucojw Hottest 100 của Triple J – và năm bài hát xứng đáng số 1]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  147. ^ Vincent, Peter (ngày 20 tháng 1 năm 2015). “Triple J Hottest 100: Has Taylor Swift been dumped from contention due to KFC ad?” [Triple J Hottest 100: Taylor Swift bị loại vì quảng cáo của KFC?]. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  148. ^ a b c Fuller 2017, tr. 168.
  149. ^ Hunt, Elle (ngày 19 tháng 1 năm 2015). “#Tay4Hottest100: Taylor Swift campaign shows it's time for Triple J to shake off cultural elitism” [#Tay4Hottest100: Chiến dịch của Taylor Swift cho thấy đã đến lúc Triple J từ bỏ chủ nghĩa tinh hoa văn hóa]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  150. ^ Hunt, Elle (ngày 20 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift fans have spoken – but will Triple J's Hottest 100 listen?” [Người hâm mộ Taylor Swift đã lên tiếng - nhưng liệu danh sách Hottest 100 của Triple J có còn được lắng nghe không?]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  151. ^ Harris, Joe (ngày 20 tháng 1 năm 2015). “The Guardian Says Triple J Are 'Sexist' For Ignoring Taylor Swift, & That's Just Dumb” [The Guardian nói Triple J là 'phân biệt giới tính' vì phớt lờ Taylor Swift, và điều đó thật ngu ngốc]. Tone Deaf (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  152. ^ Vincent, Peter (ngày 23 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift campaign has swallowed Triple J Hottest 100” [Chiến dịch của Taylor Swift đã nuốt chửng Triple J Hottest 100]. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  153. ^ Adams, Cameron (ngày 26 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift disqualified from Hottest 100” [Taylor Swift bị loại khỏi Hottest 100] (bằng tiếng Anh). News.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  154. ^ Fuller 2017, tr. 181.
  155. ^ Fuller 2017, tr. 177–179.
  156. ^ Plucinska, Joanna (ngày 2 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift Sued for $42 Million Over 'Shake It Off' Lyrics” [Taylor Swift bị kiện 42 triệu đô la Mỹ vì lời bài hát 'Shake It Off']. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  157. ^ Brodsky, Rachel (ngày 1 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift Is Being Sued for Allegedly Stealing 'Shake It Off' Lyrics” [Taylor Swift bị kiện vì cáo buộc ăn cắp lời bài hát 'Shake It Off']. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  158. ^ a b Preuss, Andreas; Isidore, Chris; Burke, Samuel (ngày 12 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift shakes off copyright lawsuit” [Taylor Swift phủi bỏ vụ kiện bản quyền] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  159. ^ “Judge 'shakes off' lawsuit against Taylor Swift ... by quoting Taylor Swift” [Thẩm phán 'rũ bỏ' vụ kiện Taylor Swift... bằng trích dẫn nhạc Taylor Swift]. USA Today (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  160. ^ Gaca, Anna (ngày 19 tháng 9 năm 2017). “Taylor Swift Hit With Copyright Lawsuit Over 'Shake It Off' [Taylor Swift bị kiện bản quyền vì 'Shake It Off']. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  161. ^ Savage, Mark (ngày 14 tháng 2 năm 2018). “US Judge dismisses Taylor Swift 'haters' case as too 'banal' [Thẩm phán Hoa Kỳ bác bỏ vụ kiện của 'kẻ thù ghét' Taylor Swift vì quá 'tầm thường']. BBC News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  162. ^ Maddaus, Gene (ngày 28 tháng 10 năm 2019). “Appeals Court Revives 'Shake It Off' Lawsuit Against Taylor Swift” [Tòa phúc thẩm khôi phục vụ kiện 'Shake It Off' nhắm về phía Taylor Swift]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  163. ^ Cooke, Chris (ngày 13 tháng 8 năm 2020). “Taylor Swift has another go at shaking off Shake It Off lyric theft action” [Taylor Swift có một bước đi khác trong việc loại bỏ hành động trộm lời bài hát Shake It Off]. Complete Music Update (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  164. ^ Cooke, Chris (ngày 21 tháng 7 năm 2021). “Taylor Swift seeks summary judgement in her ongoing Shake It Off lyric-theft dispute” [Taylor Swift tìm kiếm bản phán quyết tóm tắt trong vụ tranh chấp ăn cắp lời bài hát Shake It Off đang diễn ra của cô ấy]. Complete Music Update (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  165. ^ Donahue, Bill (ngày 9 tháng 12 năm 2021). “Taylor Swift Must Face Trial in 'Shake It Off' Copyright Lawsuit” [Taylor Swift phải hầu tòa trong vụ kiện bản quyền 'Shake It Off']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  166. ^ Donahue, Bill (ngày 28 tháng 12 năm 2021). “Taylor Swift Files to Dismiss 'Shake It Off' Lawsuit After 'Unprecedented' Ruling” [Taylor Swift đệ đơn bác bỏ vụ kiện 'Shake It Off' sau phán quyết 'chưa từng có']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  167. ^ Donahue, Bill (ngày 14 tháng 1 năm 2022). “Taylor Swift's Accusers Say She Must Face 'Shake It Off' Trial, Even If She's 'Unhappy' [Những người tố cáo Taylor Swift nói rằng cô ấy phải đối mặt với phiên tòa 'Shake It Off', ngay cả khi cô ấy 'không vui']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  168. ^ Donahue, Bill (ngày 12 tháng 12 năm 2022). “Taylor Swift Copyright Accusers Drop Lawsuit Over 'Shake It Off' After Five Years Of Litigation” [Những người tố cáo bản quyền của Taylor Swift rút đơn kiện 'Shake It Off' sau 5 năm kiện tụng]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  169. ^ “Labrinth Puts His Own Spin on Taylor Swift's 'Shake It Off' [Labrinth thể hiện phong cách riêng của mình trong 'Shake It Off' của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). MTV. ngày 22 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  170. ^ Blistein, Jon (ngày 10 tháng 2 năm 2015). “Charli XCX Turns Taylor Swift Punk With Raucous 'Shake It Off' Cover” [Charli XCX biến Taylor Swift thành nhạc punk với bản cover 'Shake It Off' khàn khàn]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  171. ^ “Sam Smith, Charli XCX nominated for mtvU Woodie Awards” [Sam Smith, Charli XCX được đề cử giải mtvU Woodie Awards]. Business Standard (bằng tiếng Anh). Press Trust of India. ngày 19 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  172. ^ Gracey, Oscar (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams' '1989': Track By Track” [Ryan Adams' '1989': Từng bài một] (bằng tiếng Anh). Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  173. ^ Winograd, Jeremy (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Review: Ryan Adams, 1989” [Đánh giá: Ryan Adams, 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  174. ^ Zaleski, Annie (ngày 21 tháng 9 năm 2015). “Ryan Adams transforms Taylor Swift's 1989 into a melancholy masterpiece” [Ryan Adams biến 1989 của Taylor Swift thành kiệt tác u sầu]. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  175. ^ Dornbush, Jonathon (ngày 3 tháng 4 năm 2015). “Dwayne 'The Rock' Johnson shakes it off to Taylor Swift, Bee Gees on 'Lip Sync Battle' [Dwayne 'The Rock' Johnson đọ sức bằng bài hát của Taylor Swift và Bee Gees trong 'Lip Sync Battle']. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  176. ^ “Taylor Swift's break-up songs subject of Family Guy” [Những ca khúc chia tay của Taylor Swift trở thành chủ đề trong Family Guy]. The Indian Express (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  177. ^ Daly, Rhian (ngày 11 tháng 12 năm 2016). “Reese Witherspoon has done an EDM cover of Taylor Swift's 'Shake It Off' [Reese Witherspoon cover EDM ca khúc 'Shake It Off' của Taylor Swift]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  178. ^ Aniftos, Rania (ngày 30 tháng 1 năm 2019). “Lupita Nyong'o Says Taylor Swift's 'Shake It Off' Helped Her Get Out of a 'Funk' [Lupita Nyong'o nói rằng 'Shake It Off' của Taylor Swift đã giúp cô thoát khỏi 'cơn kinh hoàng']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  179. ^ Gelman, Vlada (ngày 14 tháng 5 năm 2021). “Zoey's Playlist Finale Sneak Peek: Time to 'Shake It Off' at Max's Goodbye Party” [Xem trước phần cuối danh sách phát của Zoey: Đã đến lúc 'Shake It Off' tại bữa tiệc tạm biệt của Max] (bằng tiếng Anh). Yahoo!. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  180. ^ Hồng Nhi (ngày 20 tháng 6 năm 2018). “Hà Thu bị 'ném đá' khi hóa thân thành Taylor Swift” [Trong tập 2 Gương mặt thân quen, Á hậu Hà Thu đã cover lại phần trình diễn tiết mục "Shake It Off" của nữ ca sĩ Taylor Swift. Tuy nhiên, người đẹp đã bị fan của giọng ca đình đám này chê bai không tiếc lời]. Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2024.
  181. ^ "Australian-charts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  182. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  183. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  184. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  185. ^ “Hot 100 Billboard Brasil – weekly” [Hot 100 Billboard Brasil – hàng tuần]. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ngày 8 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  186. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  187. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  188. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  189. ^ "Taylor Swift Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  190. ^ Taylor Swift — Shake It Off (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  191. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 47. týden 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  192. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Digital Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 43. týden 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  193. ^ "Hitlisten.NU – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  194. ^ "Taylor Swift Chart History (Euro Digital Song Sales)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  195. ^ "Taylor Swift: Shake It Off" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  196. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  197. ^ “Taylor Swift Chart History (Greece Digital Song Sales)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Hy Lạp Digital Song Sales)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  198. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  199. ^ "Italiancharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  200. ^ "Taylor Swift Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  201. ^ “Japan Adult Contemporary Airplay Chart” [Bảng xếp hạng phát thanh Adult Contemporary ở Nhật Bản]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  202. ^ “Taylor Swift” [Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). The Official Lebanese Top 20. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  203. ^ “Taylor Swift Chart History (Luxembourg Digital Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Luxembourg Digital Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  204. ^ “Mexico Airplay” [Phát thanh Mexico]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  205. ^ "Dutchcharts.nl – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  206. ^ “Taylor Swift Chart History (Portugal Digital Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Bồ Đào Nha Digital Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  207. ^ “Airplay 100 – 2 noiembrie 2014” [Airplay 100 – 2 tháng 11 năm 2014] (bằng tiếng Romania). Kiss FM. ngày 2 tháng 11 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  208. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  209. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 45. týden 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  210. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Singles Digital Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 44. týden 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  211. ^ “SloTop50: Slovenian official singles weekly chart” [SloTop50: Bảng xếp hạng đĩa đơn chính thức hàng tuần của Slovenia] (bằng tiếng Slovenia). SloTop50. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  212. ^ "EMA Top 10 Airplay: Week Ending ngày 7 tháng 10 năm 2014" (bằng tiếng Anh). Entertainment Monitoring Africa. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  213. ^ “South Korea Gaon International Chart (Gaon Chart)” [Bảng xếp hạng quốc tế Gaon Hàn Quốc (Bảng xếp hạng Gaon)] (bằng tiếng Hàn). Gaon Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  214. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  215. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  216. ^ "Taylor Swift Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  217. ^ "Taylor Swift Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  218. ^ "Taylor Swift Chart History (Country Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  219. ^ "Taylor Swift Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  220. ^ "Taylor Swift Chart History (Latin Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  221. ^ "Taylor Swift Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  222. ^ "Taylor Swift Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  223. ^ "Taylor Swift Chart History (Global 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  224. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – Shake It Off" (bằng tiếng Anh). AFP Top 100 Singles. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  225. ^ “RIAS Top Charts Week 44 (27 Oct – 2 Nov 2023)” [Bảng xếp hạng bài hát RIAS Tuần 44 (27 tháng 10 – 2 tháng 11 năm 2023)] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Singapore. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  226. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Singles 2014” [Bảng xếp hạng cuối năm – ARIA Top 100 đĩa đơn 2014] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  227. ^ “Jahreshitparade Singles 2014” [Đĩa đơn xuất sắc năm 2024] (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  228. ^ “2014 Year End Charts – Top Canadian Hot 100” [Bảng xếp hạng cuối năm 2014 – Top Canada Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  229. ^ “Top de l'année Top Singles 2014” [Top Singles của năm 2014] (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  230. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts” [Top 100 đĩa đơn hàng năm] (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  231. ^ “Single Top 100 – eladási darabszám alapján – 2014” [Top 100 đơn lẻ – dựa trên số lượng đơn vị đã bán – 2014] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  232. ^ “IRMA – Best of Singles” [IRMA – Đĩa đơn hay nhất] (bằng tiếng Anh). Irish Recorded Music Association. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  233. ^ “סיכום 2014 בהשמעות רדיו: "מסתובב", אריק איינשטיין ופאר טסי” [Tóm tắt năm 2014 trên đài phát thanh: "Spinning", Eric Einstein và Far Tsi]. mako.co.il (bằng tiếng Do Thái). ngày 1 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  234. ^ “Japan Hot 100 – Year End 2014” [Japan Hot 100 – Cuối Năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  235. ^ “Top 100-Jaaroverzicht van 2014” [Top 100 bài hát năm 2014] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  236. ^ “Jaaroverzichten – Singles 2014” [Đĩa đơn năm 2014] (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Charts. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  237. ^ “End of Year Charts 2014” [Bảng xếp hạng cuối năm 2014] (bằng tiếng Anh). Recorded Music New Zealand. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  238. ^ “Utwory, których słuchaliśmy w radiu – Airplay 2014” [Những bài hát chúng ta đã nghe trên radio – Airplay 2014] (bằng tiếng Ba Lan). Polish Society of the Phonographic Industry. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  239. ^ “Top 100 Songs Annual 2014” [Top 100 bài hát năm 2014] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  240. ^ “Swiss Year-End Charts 2014” [Bảng xếp hạng cuối năm của Thụy Sĩ 2014] (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  241. ^ “End of Year Singles Chart Top 100 – 2014” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm Top 100 – 2014] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  242. ^ “Hot 100 Songs – Year End 2014” [Hot 100 Songs – Cuối năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  243. ^ “Adult Contemporary Songs: Year End 2014” [Adult Contemporary Songs: Cuối năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  244. ^ “Adult Pop Songs: Year End 2014” [Adult Pop Songs: Cuối năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  245. ^ “Pop Songs: Year End 2014” [Pop Songs: Cuối năm 2014]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  246. ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 100 Singles 2015” [Bảng xếp hạng ARIA – Bảng xếp hạng cuối năm – Top 100 đĩa đơn 2015] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  247. ^ “Rapports Annuels 2015” [Báo cáo thường niên 2015] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  248. ^ “Canadian Hot 100 Year End 2015” [Canada Hot 100 cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  249. ^ “Top de l'année Top Singles 2015” [Top đĩa đơn năm 2015] (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  250. ^ “Single Top 100 – eladási darabszám alapján – 2015” [Single Top 100 - theo số lượng đơn vị bán ra - 2015] (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  251. ^ “Japan Hot 100 Year End 2015” [Japan Hot 100 cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  252. ^ “SloTop50: Slovenian official year end singles chart” [SloTop50: Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm chính thức của Slovenia] (bằng tiếng Slovenia). slotop50.si. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  253. ^ “Hot 100: Year End 2015” [Hot 100: Cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  254. ^ “Adult Contemporary Songs Year End 2015” [Adult Contemporary Songs cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  255. ^ “Adult Pop Songs Year End 2015” [Adult Pop Songs cuối năm 2015]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  256. ^ “Japan Hot 100 : Year End 2016” [Japan Hot 100 : Cuối năm 2016]. Billboard (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  257. ^ “Japan Hot 100 : Year End 2017” [Japan Hot 100 : Cuối năm 2017]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  258. ^ “ARIA Top 100 Singles Chart for 2023” [Bảng xếp hạng Top 100 đĩa đơn ARIA năm 2023] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  259. ^ Billboard Global 200 – Year-End 2023” [Billboard Global 200 – Cuối năm 2023]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  260. ^ “2019 ARIA End of Decade Singles Chart” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối thập niên ARIA 2019] (bằng tiếng Anh). ARIA Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  261. ^ Copsey, Rob (ngày 11 tháng 12 năm 2019). “The UK's Official Top 100 biggest songs of the decade” [Top 100 bài hát Official hay nhất thập niên của Vương quốc Anh] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  262. ^ “Decade-End Charts: Hot 100 Songs” [Bảng xếp hạng cuối thập niên: Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  263. ^ “Digital Song Sales – Decade-End” [Digital Song Sales – Cuối thập niên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  264. ^ “Streaming Songs – Decade-End” [Streaming Songs – Cuối thập niên]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  265. ^ “Hot 100 turns 60” [Hot 100 tròn 60 tuổi]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  266. ^ “Billboard Hot 100 60th Anniversary Interactive Chart” [Bảng xếp hạng tương tác kỷ niệm 60 năm Billboard Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  267. ^ “Greatest of All Time Adult Pop Songs : Page 1” [Những bài hát Adult Pop hay nhất mọi thời đại : Trang 1]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  268. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Áo – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  269. ^ “Ultratop − Goud en Platina – singles 2018” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  270. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Brasil – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2024.
  271. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  272. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; 'Shake It Off')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  273. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  274. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024. Nhập Taylor Swift ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Shake It Off ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  275. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  276. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Na Uy – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  277. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Bồ Đào Nha – Taylor Swift – Shake It Off” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  278. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Tây Ban Nha – Taylor Swift – Shake It Off”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2024.
  279. ^ “Veckolista Singlar, vecka 45, 2014 | Sverigetopplistan” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024. Kéo xuống vị trí 12 để xem chứng nhận.
  280. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Shake It Off')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  281. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024.
  282. ^ “Chứng nhận đĩa đơn phát trực tuyến Nhật Bản – Taylor Swift – Shake It Off” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2024. Chọn 2023年11月 ở menu thả xuống
  283. ^ Aswad, Jem; Willman, Chris (ngày 19 tháng 11 năm 2018). “Taylor Swift Signs New Deal With Universal Music Group” [Taylor Swift ký hợp đồng mới với Universal Music Group]. Variety (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  284. ^ Melas, Chloe (ngày 16 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Speaks Out About Sale of Her Masters” [Taylor Swift lên tiếng về việc bán bản thu của mình] (bằng tiếng Anh). CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  285. ^ “Taylor Swift Wants to Re-Record Her Old Hits” [Taylor Swift muốn thu âm lại những bản hit cũ của mình] (bằng tiếng Anh). BBC News. ngày 22 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  286. ^ Finnis, Alex (ngày 17 tháng 11 năm 2020). “Taylor Swift Masters: The Controversy around Scooter Braun Selling the Rights to Her Old Music Explained” [Bản thu tác phẩm Taylor Swift: Tranh cãi xung quanh việc Scooter Braun bán bản quyền âm nhạc cũ của cô ấy đã được giải thích]. i (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  287. ^ Shah, Neil (ngày 9 tháng 4 năm 2021). “Taylor Swift Releases New Fearless Album, Reclaiming Her Back Catalog” [Taylor Swift phát hành album mới Fearless, đòi lại danh mục âm nhạc cũ của cô]. The Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  288. ^ Espada, Mariah (ngày 6 tháng 7 năm 2023). “Taylor Swift Is Halfway Through Her Rerecording Project. It's Paid Off Big Time” [Taylor Swift đã đi được nửa chặng đường trong dự án thu âm lại. Công việc đã được đền đáp xứng đáng]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  289. ^ Vassell, Nicole (ngày 27 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift Fans Celebrate As Pop Star Releases 1989 (Taylor's Version) [Người hâm mộ Taylor Swift ăn mừng khi ngôi sao nhạc Pop phát hành 1989 (Taylor's Version)]. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  290. ^ D'Souza, Shaad (ngày 30 tháng 10 năm 2023). “Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) Album Review” [Taylor Swift: 1989 (Taylor's Version) Đánh giá album]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  291. ^ a b Taylor Swift (2023). 1989 (Taylor's Version) [1989 (Phiên bản của Taylor)] (Bìa đĩa CD) (bằng tiếng Anh). Republic Records. 0245597656.
  292. ^ “ARIA Top 50 Singles Chart” [Bảng xếp hạng Top 50 đĩa đơn của ARIA] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 6 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  293. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  294. ^ "Taylor Swift Chart History (Global 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  295. ^ “Digital Singles Chart (International)” [Bảng xếp hạng đĩa đơn kỹ thuật số (Quốc tế)] (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Hy Lạp. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  296. ^ “NZ Top 40 Singles Chart” [Bảng xếp hạng Top 40 đĩa đơn New Zealand] (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. ngày 6 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  297. ^ “Taylor Swift Chart History (Philippines Songs)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Philippines Songs)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  298. ^ “Veckolista Heatseeker, vecka 44” [Danh sách hàng tuần Heatseeker, tuần 44] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  299. ^ "Official Singles Downloads Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  300. ^ “Official Singles Sales Chart Top 100” [Bảng xếp hạng doanh số bán đĩa đơn Official Top 100] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  301. ^ “Official Streaming Chart Top 100” [Bảng xếp hạng đĩa đơn phát trực tuyến Official Top 100] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  302. ^ "Taylor Swift Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.
  303. ^ “Taylor Swift Chart History (Billboard Vietnam Hot 100)” [Lịch sử bảng xếp hạng Taylor Swift (Billboard Vietnam Hot 100)]. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2024.

Thư mục

Kembali kehalaman sebelumnya