Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Thống sứ Bắc Kỳ

Phủ Khâm sai năm 1945, tức Dinh Thống sứ Bắc Kỳ (1917-1945)

Thống sứ Bắc Kỳ (tiếng Pháp: Résident supérieur du Tonkin) là viên chức người Pháp đứng đầu xứ bảo hộ Bắc Kỳ dưới thời Pháp thuộc. Chức vị này được lập ra vào năm 1889 để đại diện quyền lợi của Pháp và để điều hành việc cai trị.

Lịch sử

Thống soái Bắc Kỳ và Tổng sứ Trung Kỳ - Bắc Kỳ

Ngay từ trước khi Pháp chiếm được Bắc Kỳ, họ đã ấn định vị "Thống soái Bắc Kỳ" để chỉ huy Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ (corps expéditionnaire du Tonkin) mở cuộc xâm lăng. Hòa ước Quý Mùi năm 1883 chính thức buộc triều đình Huế nhận sự đô hộ của Pháp ở Bắc Kỳ. Chức vụ Tổng Công sứ Trung - Bắc Kỳ (Résident général de l'Annam et du Tonkin) hay Tổng Trú sứ Trung - Nam Kỳ được đặt ra để thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam ở cả Bắc và Trung Kỳ. Tiếng Việt vào thời điểm Hòa ước Quý Mùi, 1883 được ký kết không quen dùng "trú sứ" hay "lưu trú quan" để dịch chữ résident, nhân lại sẵn có chữ consul nên mới gọi viên chức ấy là "công sứ".[1] Chức vụ này cũng thường được gọi rút ngắn là "Tổng sứ Trung - Bắc Kỳ" hay gọi là "Toàn quyền Lưỡng Kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Năm 1885, tướng Philippe Marie André Roussel de Courcy được cử sang Việt Nam với quyền hạn cai quản cả Bắc lẫn Trung Kỳ. Năm sau đó, Paul Bert một viên chức dân sự được cử sang kế nhiệm.

Thống sứ Bắc Kỳ

Năm 1887 khi Liên bang Đông Dương hình thành thì chức vụ Toàn quyền Đông Dương được lập nên, nắm toàn quyền cai quản cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam KỳCao Miên; tới năm 1889 chức vụ Tổng sứ Trung Kỳ - Bắc Kỳ bị bãi bỏ. Trước đó, vào năm 1886, chức vụ Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin) và Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur de l’Annam) được đặt ra, khi đó còn dưới quyền trực tiếp của Tổng sứ. Ngày 03 tháng 6 năm 1886, người Pháp ép vua Đồng Khánh thành lập Nha Kinh lược sứ ở Bắc Kỳ, tách xứ này khỏi quyền kiểm soát trực tiếp của triều đình Huế. Về danh nghĩa, đứng đầu xứ này là viên chức Kinh lược sứ Bắc Kỳ của triều đình Nhà Nguyễn (đầu tiên là Nguyễn Hữu Độ, rồi tới Nguyễn Trọng Hợp...); nhưng trên thực tế, quyền lực thuộc về Thống sứ Bắc Kỳ của người Pháp. Nha Kinh lược sứ ở Bắc Kỳ chỉ tồn tại tới năm 1897 rồi bị bãi bỏ, người cuối cùng đứng đầu Nha này là Hoàng Cao Khải.

Ở cấp thấp hơn, đứng đầu mỗi tỉnh ở cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Công sứ (Résident) và Phó sứ (Résident adjoint). Lúc bấy giờ trực tiếp dưới quyền Thống sứ Bắc Kỳ là ba công sứ (résident):

  1. Hải Phòng, giám sát thêm hai phó công sứ (vice-résident) ở Hải DươngTiên Yên
  2. Sơn Tây, giám sát thêm hai phó công sứ ở Tuyên QuangLào Cai
  3. Nam Định, giám sát thêm phó công sứ ở Ninh Bình.
  4. Thống sứ Bắc Kỳ còn điều hành ba phó công sứ ở Bắc Ninh, Lạng SơnThất Khê.[2]

Kể từ ngày 26 tháng 7 năm 1897, Thống sứ Bắc Kỳ kiêm nhiệm luôn việc đại diện cho triều đình Huế sau khi thực dân Pháp ép triều đình bãi bỏ chức Kinh lược sứ.[3] Địa vị này trên giấy tờ đặt viên thống sứ vào ngạch quan của triều đình Huế và có quyền cất chức hay bổ nhiệm toàn bộ phẩm trật các quan người Việt.[4]

Từ năm 1900, Thống sứ Bắc Kỳ kiêm luôn chức quản trị Quảng Châu Loan tuy đây là một nhượng địa riêng với hạn kỳ 99 năm.

Đối với Liên bang Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ là một thành viên của Hội đồng Tối cao (Conseil supérieur) trợ lực cho Toàn quyền Đông Dương. Thống sứ cũng là vị chỉ huy lực lượng lính tập ở Bắc Kỳ.

Trụ sở làm việc

Dinh Thống sứ Bắc Kỳ (tiếng Pháp: Palais du Résident Supérieur) ở cạnh vườn hoa Paul Bert (còn gọi là "Vườn hoa con cóc") gần Hồ Gươm, Hà Nội được khởi xây năm 1917 do kiến trúc sư Bussy hoạch định để làm tư dinh cho Thống sứ Pháp. Mặt trước dinh nhìn ra Boulevard Henri Rivière (nay là đường Ngô Quyền).

Dinh này chứng kiến cuộc tiếp thu chính quyền khi Khâm sai Phan Kế Toại, đại diện Đế quốc Việt Nam ra Hà Nội nhận nhậm sở vào Tháng Ba năm 1945. Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), tòa nhà được đổi thành Phủ khâm sai Bắc Kỳ.

Tháng Tám năm 1945, lực lượng Việt Minh tụ tập ở cổng dinh và đoạt chính quyền cũng ở dinh này. Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời về làm việc tại đây cho đến ngày Toàn quốc Kháng chiến. Trong thời gian này, tòa nhà được đổi tên thành Bắc Bộ Phủ.

Ngày nay tòa nhà được đổi tên thành Nhà khách Chính phủ.

Danh sách thống lĩnh Bắc Kỳ thời Pháp

Thống soái Bắc Kỳ (1883-1886)

Tên Năm sinh - năm mất Thời gian tại nhiệm Chú thích
Alexandre-Eugène Bouët 1833–1887 tháng 6 năm 1883 - tháng 8 năm 1883 Thiếu tướng
Anicet-Edmond-Justin Bichot 1835–1908 tháng 9 năm 1883 - tháng 11 năm 1883 Trung tá. Tạm quyền.
Anatole-Amédée-Prosper Courbet 1827–1885 tháng 11 năm 1883 - tháng 12 năm 1883 Chuẩn đô đốc
Charles-Théodore Millot 1829–1889 tháng 12 năm 1883 - tháng 9 năm 1884 Trung tướng
Louis-Alexandre-Esprit-Gaston Brière de l'Isle 1827–1896 tháng 9 năm 1884 - tháng 6 năm 1885 Thiếu tướng
Philippe-Marie-Henri Roussel de Courcy 1827–1887 tháng 6 năm 1885 - tháng 1, 1886 Trung tướng. Thống soái Trung - Bắc Kỳ.
Charles-Auguste-Louis Warnet 1827–1887 tháng 1, 1886 - tháng 4 năm 1886 Thiếu tướng. Tạm quyền Thống soái Trung - Bắc Kỳ.

Tổng sứ Trung - Bắc Kỳ (1884-1889)

Tên Thời gian tại nhiệm Chú thích
Pierre Paul Rheinart (lâm thời) 11 tháng 6 1884 - tháng 10 1884
Victor-Gabriel Lemaire tháng 10 1884 - 31 tháng 5 1885
Philippe Marie André Roussel de Courcy 31 tháng 5 1885 - Tháng Giêng 1886
Paul Bert 18 tháng 4 1886 - 11 tháng 11 1886
Alexandre Vial (tạm thời) tháng 11 1886 - Tháng Giêng 1887
Raoul Berger (tạm thời) 17 tháng 11 1887 - 25 tháng 6 1888
Paul Louis Georges Bihouard 30 Tháng Giêng 1887 - 1888
Étienne Antoine Guillaume Richaud 1888
Pierre Paul Rheinart tháng 11 1888 - 9 tháng 5 1889

Thống sứ Bắc Kỳ (1886-1945)

Tên Năm sinh - năm mất Thời gian tại nhiệm Chú thích
Jean Thomas Raoul Bonnal 1847-???? 12 tháng 11 năm 1886 - tháng 1, 1887 Lần thứ nhất
Antony Wladislas Klobukowski 1855-1934 tháng 1, 1887 - 28 tháng 4 năm 1888 Tạm quyền.
Eusèbe Irénée Parreau 1842-???? 29 tháng 4 năm 1888 - 10 tháng 5 năm 1889
Ernest Albert Brière 1848-???? 10 tháng 5 năm 1889 - 6 tháng 4 năm 1890 Lần thứ nhất
Jean Thomas Raoul Bonnal 1847-???? 7 tháng 4 năm 1890 - 3 tháng 2 năm 1891 Lần thứ hai. Tạm quyền
Ernest Albert Brière 1848-???? 3 tháng 2 năm 1891 - 27 tháng 10 năm 1891 Lần thứ hai. Sau đó chuyển ra làm Khâm sứ Trung Kỳ.
Léon Jean Laurent Chavassieux 1848-1895 27 tháng 10 năm 1891 - 20 tháng 7 năm 1893 Lần thứ nhất
François Pierre Rodier 1854-1913 20 tháng 7 năm 1893 - 30 tháng 3 năm 1895 Tạm quyền từ 15 tháng 10 năm 1894
Louis Paul Luce 1856-19?? 30 tháng 3 năm 1895 - 13 tháng 5 năm 1895 Tạm quyền
Léon Jean Laurent Chavassieux 1848-1895 13 tháng 5 năm 1895 - 7 tháng 6 năm 1895 Lần thứ hai. Tạm quyền
Édouard Picanon 1854-1939 18 tháng 6 năm 1895 - 17 tháng 7 năm 1895 Tạm quyền
Augustin Julien Fourès 1853-1915 18 tháng 7 năm 1895 - 9 tháng 3 năm 1896 Lần thứ nhất. Tạm quyền
Léon Jules Pol Boulloche 1855-19?? 10 tháng 3 năm 1896 - 1897
Augustin Julien Fourès 1853-1915 1897 - 1904 Lần thứ hai
Jean-Henri Groleau 1859-19?? 1904 - 8 tháng 3 năm 1907
Louis Alphonse Bonhoure 1865-1909 9 tháng 3 năm 1907 - 1907
Louis Jules Morel 1853-1911 1907 - 1909
Jules Simoni ????-???? 1909 - 14 tháng 12 năm 1912
Léon Louis Jean Georges Destenay 1861-1915 15 tháng 12 năm 1912 - 8 tháng 6 năm 1915
Maurice Joesph Le Gallen ????-???? 1915 - 1916
Jean Baptiste Édouard Bourcier Saint-Gaffray 1870-19?? 1917 - 1921
Maurice Antoine François Monguillot 1874-19?? 1921 - 1925
Eugène Jean Louis René Robin ????-???? 1925 - 1930
Auguste Eugène Ludovic Tholance 1878-1938 1930 - 1937
Yves Charles Châtel 1865-1944 1937 - 1940
Émile Louis François Grandjean ????-???? 1940 - 1941
Edouard André Delsalle 1893-1945 1909 - 1912
Jean Maurice Norbert Haelewyn 1901-1945 1942 - 1944 Sau trở thành Khâm sứ Pháp cuối cùng ở Trung Kỳ.
Camille Auphelle 1908-1945 1944 - 9 tháng 3 năm 1945 Thống sứ Pháp cuối cùng ở Bắc Kỳ.

Công sứ Nhật tại Bắc Bộ (1945)

Tên Năm sinh - năm mất Thời gian tại nhiệm Chú thích
Nishimura Kumao
(西村 熊雄)
1899-1980 9 tháng 3 năm 1945 - tháng 9 năm 1945

Ủy viên tại Bắc và Trung Bộ (1945-1955)

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Pháp tìm cách trở lại phục hồi quyền thống trị tại Việt Nam, vì vậy đã đặt chức vụ Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Trung và Bắc Bộ. Chức vụ này có chức năng gần tương đương với chức vụ Tổng sứ Trung - Bắc Kỳ trước kia, nhưng đặt trụ sở ở Hà Nội.

Tên Năm sinh - năm mất Thời gian tại nhiệm Chú thích
Pierre Messmer 1916-2007 18 tháng 8 năm 1945 - 22 tháng 8 năm 1945 Thiếu tá. Tạm quyền
Jean-Roger Sainteny 1907-1978 22 tháng 8 năm 1945 - tháng 3 năm 1946 Thiếu tá. Lần thứ nhất
Jean Etienne Valluy 1899-1970 tháng 3 năm 1946 - tháng 6 năm 1946 Thiếu tướng.
Jean Crépin 1908-1996 tháng 6 năm 1946 - 17 tháng 8 năm 1946 Trung tá. Tạm quyền
Louis Constant Morlière 1916-2007 17 tháng 8 năm 1946 - 27 tháng 12 năm 1946 Thiếu tướng
Jean-Roger Sainteny 1907-1978 27 tháng 12 năm 1946 - 30 tháng 12 năm 1947 Lần thứ hai. Lâm thời.
Yves Jean Digo 1897-1974 tháng 1 năm 1948 - 1949 Trung tá. Tạm quyền
Marcel Jean Marie Alessandri 1895-1968 1949 - tháng 11 năm 1950 Trung tướng
Pierre Georges Jacques Marie Boyer De La Tour du Moulin 1896-1976 24 tháng 11 năm 1950 - 29 tháng 12 năm 1950 Thiếu tướng
Raoul Albin Louis Salan 1899-1984 29 tháng 12 năm 1950 - 10 tháng 2 năm 1951 Trung tướng, sau được thăng Đại tướng. Kiêm nhiệm tạm thời
François Jean Antoine Marie Amédée Gonzalez de Linarès 1897-1955 10 tháng 2 năm 1951 - 28 tháng 5 năm 1953 Thiếu tướng
René Cogny 1904-1968 28 tháng 5 năm 1953 - tháng 10 năm 1955 Thiếu tướng, sau được thăng Trung tướng

Chú thích

  1. ^ “theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2013.
  2. ^ Bianconi, F. Cartes Commerciales Tonkin. Paris: Imprimerie et Libraire centrales dé Chemins de fer, 1886.
  3. ^ Dommen, Arthur. The Indochinese Experience of the French, and the Americans, Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Indiana University Press, 2001. Trang 23.
  4. ^ Vũ Ngự Chiêu. Political and Social Change in Viet-Nam between 1940 and 1946. Madison, WI: The University of Wisconsin, 1984. tr 67-116
Kembali kehalaman sebelumnya