Tomas Transtromer sinh ngày 15 tháng 4 năm 1931 tại Stockholm (Thụy Điển) và được mẹ nuôi dưỡng do cha mẹ cậu ly hôn, mẹ ông là một giáo viên.[2][3].
Ông đã học trung học của ông tại trường Latin Södra ở Stockholm, nơi ông bắt đầu làm thơ. Ngoài việc lựa chọn tạp chí ấn phẩm, bộ sưu tập đầu tiên của bài thơ, 17dikter được xuất bản vào năm 1954. Ông tiếp tục học tại Đại học Stockholm, tốt nghiệp ngành tâm lý học vào năm 1956 với nghiên cứu bổ sung lịch sử, tôn giáo, và văn học[2]. Trong các năm 1960 và 1966, Tranströmer chia thời gian của mình giữa làm việc như một nhà tâm lý học tại trung tâm Roxtuna cho người chưa thành niên phạm tội và viết thơ.
Lúc lên 13 tuổi, Tomas Tranströmer đã làm quen với việc sáng tác thơ và đến năm 23 tuổi, Tomas Tranströmer xuất bản tuyển tập thơ đầu tiên có tựa đề Những vần thơ tuổi 17.
Năm 1990, Tomas Tranströmer trải qua cơn đột quỵ nặng nhưng sau đó vẫn không từ bỏ niềm đam mê sáng tác. Ông từng nhận được nhiều giải thưởng uy tín nhất của làng văn chương thế giới như: Giải Bonnier (của Estonia) lĩnh vực thơ, Giải quốc tế Neustadt (Mỹ) dành cho văn học, Petrarca-Preis (Đức), Vòng hoa vàng tại Đại hội thi ca quốc tế Struga Poetry Evenings (Romania), Swedish Award trong Diễn đàn Thi ca Quốc tế, giải Thành tựu trọn đời của giải Thơ ca Griffin (Canada)…
Ngoài sáng tác văn chương, trước khi bị đột quỵ, Tomas Tranströmer còn được biết đến là nhà tâm lý học làm việc trong những trại giam dành cho trẻ vị thành niên và là bác sĩ tâm lý của những phạm nhân tàn tật, nghiện ma túy. Những đóng góp của ông dành cho xã hội là điều vô giá, xuất phát từ chính tâm hồn nhạy cảm và lòng trắc ẩn của tác giả tài năng này.
Trước khi nhận giải Nobel Văn học 2011, Tranströmer đã được đề cử Nobel liên tục từ năm 2008.
Thế giới không có mái che. Tiếng động từ bên kia bức tường
quán nhậu bắt đầu bằng tiếng cười ồn, tiếng rít của răng
tiếng chuông đồng hồ và tin về cái chết
mà khi nghe thấy ai ai cũng đều run
bần bật.
Một tiếng nổ vang và tiếng bước chân của những người cứu hộ muộn màng
những con tàu lớn đậu trên sông
tiền chui vào túi không phải của những người cần
những đòi hỏi chất đống lên đòi hỏi
hoa màu đỏ linh cảm mồ hôi của chiến tranh.
Từ quán, xuyên qua bức tường đi thẳng vào phòng
vào cái khoảnh khắc sẽ kéo dài bằng cả trăm năm.
Những bức tranh có tên “Giờ học nhạc”
hoặc “Cô gái ngồi đọc thư bên cửa sổ mặc áo màu xanh” –
cô mang thai tám tháng, hai con tim đập trong người mình.
Bức tường phía sau cô treo tấm bản đồ Terra Incognita – miền đất lạ.
Hơi thở bình yên… Một tấm vải lạ lẫm màu xanh
được đính vào chiếc ghế từ phía sau lưng.
Những chiếc đinh vàng bay vun vút rồi bỗng lặng ngừng
giữa không khí như là bất động mà chưa từng là gì khác.
Đôi tai nghe ra tiếng động của chiều cao và chiều sâu cùng lúc.
Đấy là áp lực từ phía bên kia của bức tường.
Nó phơi bày mỗi sự việc ra giữa không trung
và làm cho vững chắc thêm từng nét bút.
Thật đau đớn phải đi qua những bức tường
bạn chịu tổn thương nhưng điều này cần thiết lắm
Thế giới là một. Nhưng có những bức tường…
Những bức tường là một phần của bạn
tất cả mọi người đều thế – dù bạn có đoán mò đoán mẫm –
ngoại trừ trẻ con. Đối với trẻ con không có những bức tường.
Bầu trời thoáng đãng dựa vào bức tường.
Hướng vào khoảng không như là cầu nguyện.
Và quay mặt hướng về phía chúng ta – khoảng không
và thì thầm:
“Tôi không phải là trống không, tôi là mở rộng”.
Bản dịch của Hồ Thượng Tuy
April och Tystnad
Våren lig ger öde.
Det sammetsmörka diket
krälar vid min sida
utan spegelbilder.
Det enda som lyser
är gula blommor.
Jag bärs i min skugga
som en fiol
i sin svarta låda.
Det enda jag vill säga
glimmar utom räckhåll
som silvret
hos pantlånaren.
C-dur
När han kom ner på gatan efter kärleksmötet
virvlade snö i luften.
Vintern hade kommit
medan de låg hos varann.
Natten lyste vit.
Han gick fort av glädje.
Hela staden sluttade.
Förbipasserande leenden -
alla log bakom uppfällda kragar.
Det var fritt!
Och alla frågetecken började sjunga om Guds tillvaro.
Så tyckte han.
En musik gjorde sig lös
och gick i yrande snö
med långa steg.
Allting var på vandring mot ton C.
En darrande kompass riktad mot C.
En timme ovanför plågorna.
Det var lätt!
Alla log bakom uppfällda kragar.
Espresso
Det svarta kaffet på uteserveringen
med stolar och bord granna som insekter.
Det är dyrbara uppfångade droppar
fyllda med samma styrka som Ja och Nej.
Det bärs fram ur dunkla kaféer
och ser in i solen utan att blinka.
I dagsljuset en punkt av välgörande svart
som snabbt flyter ut i en blek gäst.
Det liknar dropparna av svart djupsinne
som ibland fångas upp av själen.
som ger en välgörande stöt: Gå!
Inspiration att öppna ögonen.
Paret
De släcker lampan och dess vita kupa skimrar
ett ögonblick innan den löses upp
som en tablett i ett glas mörker. Sedan lyftas.
Hotellets väggar skjuter upp i himmelsmörkret.
Kärlekens rörelser har mojnat och de sover
men deras hemligaste tankar möts
som när två färger möts och flyter in i varann
på det våta papperet i en skolpojksmålning.
Det är mörkt och tyst. Men staden har ryckt närmare
i natt. Med släckta fönster. Husen kom.
De står i hopträngd väntan mycket nära,
en folkmassa med uttryckslösa ansikten.
Efter någons död
Det var en gång en chock
som lämnade efter sig en lång, blek, skimrande kometsvans.
Den hyser oss. Den gör TV—bilderna suddiga.
Den avsätter sig som kalla droppar på luftledningarna.
Man kan fortfarande hasa fram på skidor i vintersolen
mellan dungar där fjolårslöven hänger kvar.
De liknar blad rivna ur gamla telefonkataloger—
abonnenternas namn uppslukade av kölden.
Det är fortfarande skönt att känna sitt hjärta bulta.
Men ofta känns skuggan verkligare än kroppen.
Samurajen ser obetydlig ut
bredvid sin rustning av svarta drakfjäll.
Örnklippan
Bakom terrariets glas
reptilerna
underligt orörliga.
En kvinna hänger tvätt
i tystnaden.
Döden är vindstilla.
I markens djup
glider min själ
tyst som en komet.
Vermeer
Ingen skyddad värld... Strax bakom väggen börjar larmet
börjar värdshuset
med skratt och kvirr, tandrader tårar klockornas dån
och den sinnesrubbade svågern, dödsbringaren som alla måste
darra för.
Den stora explosionen och räddningens försenade tramp
båtarna som kråmar sig på redden, pengarna som kryper ner i
fickan på fel man
krav som staplas på krav
gapande röda blomkalkar som svettas föraningar om krig.
Därifrån och tvärs genom väggen in i den klara ateljén
in i sekunden som får leva i århundraden.
Tavlor som kallar sig ”Musiklektionen”
eller ”Kvinna i blått som läser ett brev” –
hon är i åttonde månaden, två hjärtan sparkar i henne.
På väggen bakom hänger en skrynklig karta över Terra Incognita.
Andas lugnt... En okänd blå materia är fastnaglad vid stolarna.
Guldnitarna flög in med oerhörd hastighet
och tvärstannade
som om de aldrig varit annat än stillhet.
Det susar i öronen av antingen djup eller höjd.
Det är trycket från andra sidan väggen.
Det får varje faktum att sväva
och gör penseln stadig.
Det gör ont att gå genom väggar, man blir sjuk av det
men det är nödvändigt.
Världen är en. Men väggar...
Och väggen är en del av dig själv –
man vet det eller vet det inte men det är så för alla
utom för små barn. För dem ingen vägg.
Den klara himlen har ställt sig på lut mot väggen.
Det är som en bön till det tomma.
Och det tomma vänder sitt ansikte till oss
och viskar
”Jag är inte tom, jag är öppen”.
Madrigal
Tôi được thừa kế một khu rừng tối mà tôi ít khi đến nơi đây. Nhưng sẽ đến một ngày, khi người chết sẽ thế chỗ cho người sống. Thì khi đó rừng của tôi sẽ chuyển động. Và chúng ta vẫn hãy còn hy vọng. Những tội ác nghiêm trọng nhất vẫn không được vạch trần bất chấp những nỗ lực của công an. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta thì cũng thế, luôn có một tình yêu lớn không hề được tiết lộ. Tôi được thừa kế một khu rừng tối nhưng hiện tại tôi dạo chơi trong một khu rừng khác có ánh sáng ngập tràn. Mọi sinh linh đang vẫy vùng, run rẩy và hát lên. Đó là một mùa xuân và không khí tràn ngập mùi hương. Tôi từng tốt nghiệp trường Đại học lãng quên và đôi bàn tay của tôi trống không như chiếc áo trên chiếc dây phơi quần áo.
Madrigal
Jag ärvde en mörk skog dit jag sällan går. Men det kommer en dag när de döda och levande byter plats. Då sätter sig skogen i rörelse. Vi är inte utan hopp. De svåraste brotten förblir ouppklarade trots insats av många poliser. På samma sätt finns någonstans i våra liv en stor uoppklarad kärlek. Jag ärvde en mörk skog men idag går jag i en annan skog, den ljusa. Allt levande som sjunger slingrar viftar og kryper! Det är vår och luften är mycket stark. Jag har examen från glömskans universitet och är lika tomhänt som skjortan på tvättstrecket.
^Johannes Vermeer hay Jan Vermeer (1632 – 1675) là họa sĩ người Hà Lan thời Baroque, nổi tiếng với các tác phẩm về đời sống hiện thực. Hiện nay Vermeer được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong Thế kỷ vàng của nghệ thuật Hà Lan.