Hoggatt Bay được đặt lườn tại Xưởng tàu Vancouver của hãng Kaiser Company, Inc. ở Vancouver, Washington. Nguyên mang ký hiệu lườn AVG-75, nó được xếp lại lớp thành ACV-75 vào ngày 20 tháng 8 năm 1942 trước khi được hạ thủy vào ngày 4 tháng 12 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà Victor Sundrik. Con tàu lại được xếp lớp thành CVE-75 vào ngày 15 tháng 7 năm 1943, rồi được Hải quân sở hữu và nhập biên chế tại Astoria, Oregon vào ngày 11 tháng 1 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân W. V. Saunders.
Sau một lượt nghỉ ngơi ngắn tại Eniwetok, đội đặc nhiệm của Hoggatt Bay quay trở lại khu vực tuần tra để hỗ trợ trên không và bảo vệ cho chiến dịch tại quần đảo Mariana từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8. Sau đó các con tàu quay trở lại đảo Manus chuẩn bị cho cuộc đổ bộ tiếp theo lên Peleliu, một căn cứ không quân quan trọng cho các cuộc tấn công tiếp theo. Chiếc tàu sân bay lên đường vào ngày 1 tháng 9 để bảo vệ chống tàu ngầm, và trong gần hai tháng tiếp theo đã di chuyển tại vùng biển phía Tây và Nam quần đảo Mariana hỗ trợ các chiến dịch của lực lượng Hoa Kỳ. Tàu khu trục hộ tống Samuel S. Miles (DE-183) trong thành phần đội đặc nhiệm của nó đã đánh chìm tàu ngầm Nhật I-177 vào ngày 3 tháng 10, và đến cuối tháng đó, máy bay của nó đã hỗ trợ trên không cho tàu tuần dương hạng nhẹHouston (CL-81) khi nó đi về hướng Ulithi.
Hoggatt Bay đi đến Ulithi vào ngày 28 tháng 10 và lại lên đường vào ngày 10 tháng 11 để hỗ trợ trên không cho chiến dịch đang diễn ra nhằm tái chiếm Philippines. Nó tham gia cuộc thực tập đổ bộ tại vịnh Huon, New Guinea để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen trước khi đi đến Manus vào ngày 20 tháng 12, nơi nó gia nhập một lực lượng đặc nhiệm hùng mạnh, và bắt đầu khởi hành vào cuối tháng 12 để hướng sang vịnh Lingayen. Hành trình đi sang Philippines tỏ ra nguy hiểm, vì đối phương liên tục tấn công bằng thứ vũ khí cuối cùng còn lại: những máy bay tấn công cảm tử Kamikaze. Hoggatt Bay và các tàu khác phải chiến đấu phòng không liên tục từ ngày 3 tháng 1 năm 1945, bắn rơi nhiều kẻ tấn công, nhưng cũng không ngăn được tàu sân bay hộ tống Ommaney Bay (CVE-79) bị mất do Kamikaza đánh trúng và nhiều tàu khác bị hư hại. Đi đến ngoài khơi vịnh Lingayen vào ngày 6 tháng 1, Hoggatt Bay tung máy bay của nó ra hỗ trợ cho cuộc đổ bộ và phá hủy nhiều mục tiêu cứ điểm đối phương bất chấp các cuộc tấn công tự sát, và hoạt động cho đến ngày 17 tháng 1, khi con tàu rút lui về Ulithi rồi lên đường đi San Diego để đại tu.
Hoggatt Bay về đến San Diego vào ngày 15 tháng 2, và sau khi thực hiện những sửa chữa cần thiết, nó lại lên đường vào ngày 6 tháng 4, để tham gia cùng hạm đội cho chiến dịch đổ bộ tiếp theo lên Okinawa. Đi ngang qua Trân Châu Cảng và Ulithi, nó đi đến ngoài khơi Okinawa vào ngày 8 tháng 5, trực chiến ở phía Nam hòn đảo để hỗ trợ trực tiếp cho cuộc tấn công. Máy bay của nó đã tiến hành các phi vụ hỗ trợ gần mặt đất, trinh sát hình ảnh và hỗ trợ tiếp liệu cho binh lính trên bờ trong giai đoạn từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 24 tháng 6.