USS Icefish (SS-367) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên mọi loài trong họ Cá ngần.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng năm chuyến tuần tra và đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 8.404 tấn.[9] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, nó được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IB để chuyển cho Hà Lan và tiếp tục phục vụ như là chiếc HNLMS Walrus (S802) từ năm 1953 đến năm 1971. Con tàu cuối cùng được hoàn trả cho Hoa Kỳ và bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Icefish được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[10] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[7][11] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[6]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[6] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[12][13]
Icefish khởi hành từ Majuro vào ngày 8 tháng 12 cho chuyến tuần tra tiếp theo, hoạt động phối hợp cùng các tàu ngầm Spot (SS-413) và Balao (SS-285). Chuyến đi kéo dài 43 nhưng không mang lại kết quả, và con tàu buộc phải quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 20 tháng 1, 1945 do gặp trục trặc kỹ thuật.[1]
1945
Chuyến tuần tra thứ ba
Cùng với các tàu ngầm Sawfish và Kingfish (SS-234), Icefish khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 20 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực biển Hoa Đông, về phía Đông và Đông Bắc Đài Loan. Vào lúc này mục tiêu tiềm năng đã trở nên hiếm hoi, và chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra kéo dài 60 ngày mà không có kết quả, khi nó quay trở về căn cứ tại Apra Harbor, Guam.[1]
Chuyến tuần tra thứ tư
Trong chuyến tuần tra thứ tư, Icefish chuyển sang hoạt động tại khu vực Hải Nam, Hong Kong, Đài Loan, vịnh Thái Lan và biển Java. Một lần nữa trong suốt thời gian 46 ngày nó không bắt gặp một mục tiêu nào có giá trị. Dù sao vào ngày 7 tháng 6, nó đã phối hợp với một thủy phi cơPBY Catalina trong hoạt động giải cứu sáu thành viên đội bay Không lực ngoài khơi bờ biển Đài Loan. Nó quay trở về căn cứ tại Fremantle, Australia vào ngày 4 tháng 7 để được tái trang bị.[1]
Chuyến tuần tra thứ năm
Icefish khởi hành từ Fremantle vào ngày 29 tháng 7 cho chuyến tuần tra cuối cùng. Trên đường đi vào ngày 7 tháng 8, nó bắt gặp một thuyền buồm nhỏ chạy động cơ diesel, với thủy thủ đoàn gồm hai người Nhật Bản và bảy người khác. Một người Nhật nhảy xuống biển thay cho bị bắt làm tù binh, những người còn lại bị bắt giữ, và chiếc thuyền bị đánh chìm bằng hải pháo. Sau khi Nhật Bảnchấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, nó kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến Tanapag Harbor, Saipan vào ngày 22 tháng 8.[1]
Sau khi ngừng hoạt động, con tàu trên danh nghĩa được hoàn trả cho Hoa Kỳ, rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 7, 1971, và được bán cho hãng A.J. Van Den Kooy N.V. tại Pijnacker để tháo dỡ vào ngày 12 tháng 11, 1971.[14][15]
Phần thưởng
Icefish được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][14] Nó được ghi công đã đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 8.404 tấn.[9]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.