C. undulatus là loài có kích thước lớn nhất trong họ Cá bàng chài, với chiều dài lớn nhất được biết đến là 250 cm và nặng khoảng 191 kg.[8] Chúng có bộ hàm rất chắc với bờ môi dày thịt; mỗi hàm có hai răng nanh nằm ở phía trước. Cá đực trưởng thành có một bướu lớn nhô ra ở trán.[9]
C. undulatus có màu ô liu đến xanh lục; vảy cá có các vạch đen. Đầu của những cá thể trưởng thành chuyển sang màu lục lam đến xanh lam với các vệt vàng gợn sóng. Sau mắt có hai đường sọc đen. Vây đuôi bo tròn.[10] Cá con có màu sắc sáng hơn. Ngoài hai đường sọc đen sau mắt như cá trưởng thành, cá con có thêm hai sọc đen từ trước mắt băng chéo xuống mõm.[9]
Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 12; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[9][10]
Ngoài ra, nhiều mẫu san hô P. eydouxi (= Pocillopora grandis) cũng được tìm thấy trong dạ dày của nhiều mẫu vậtC. undulatus, được cho là chúng đã cắn vụn loài san hô này để tìm kiếm cua Trapezia, một loài cộng sinh với san hô Pocillopora.[11]
C. undulatus có thể sống đến ít nhất 30 năm và thuần thục sinh dục trong khoảng 5 năm đầu đời (chiều dài cơ thể nằm trong khoảng 35–50 cm). C. undulatus là loài lưỡng tính tiền nữ, tức cá đực trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá cái; những cá thể trên có chiều dài trên 1 m hầu hết là cá đực.[8]
Vào thời điểm sinh sản, C. undulatus hợp thành những nhóm khoảng vài chục và có thể lên đến hơn một trăm con.[8] Chúng hầu như không di chuyển quá xa để cùng tập hợp đẻ trứng.[13] Trứng có hình cầu, đường kính khoảng 0.65 mm, không có sắc tố.[8]
Bảo tồn
C. undulatus được xếp vào danh sách Loài nguy cấp trong Sách Đỏ IUCN[1] và Phụ lục II của Công ước CITES.[14] Tại Việt Nam, loài này cũng đã nằm trong Danh mục các loài thủy sinh quý hiếm cần bảo tồn với cấp độ "Có nguy cơ tuyệt chủng rất lớn".[4]
Số lượng cá sú mì C. undulatus đã suy giảm nghiêm trọng do một số mối đe dọa, bao gồm:
Khai thác làm thực phẩm với cường độ vượt mức ở khu vực Đông Nam Á
Như trên, một trong những nguyên nhân suy giảm số lượng là khai thác thiếu bền vững phục vụ cho buôn bán thực phẩm sống. Sabah (nằm trên Đảo Borneo) là một nguồn chính cung cấp cá sú mì. Ngành công nghiệp đánh cá đặc biệt quan trọng tại đây, bởi vì tỷ lệ đói nghèo cao. Việc xuất khẩu của cá này ra khỏi Sabah đã dẫn đến sự suy giảm khoảng 99% số lượng tại đây. Trong nỗ lực bảo vệ loài này đã có một lệnh cấm xuất khẩu ra ngoài. Tuy nhiên, điều này không ngăn chặn tình trạng bất hợp pháp, không được báo cáo. Việc bảo vệ bởi tổ chức CITES được tiến hành ở khu vực này, bởi Bộ thủy sản của Malaysia, Sabah nơi cấp giấy phép để điều chỉnh các hoạt động đánh cá.[13]
Cá sú mì C. undulatus được xem là một loài bảo trợ. Điều này có nghĩa là những loài khác có cùng khu vực phân bố với C. undulatus sẽ bị thu hẹp phạm vi lại nhưng có lợi là được bảo vệ cùng với C. undulatus.[16]
C. undulatus có lịch sử bị đánh bắt thương mại ở Úc, nhưng đã được bảo vệ ở Queensland từ năm 2003 và Tây Úc từ năm 1998.[17]
Ở Quảng Đông (Trung Quốc), giấy phép được yêu cầu trong việc mua bán của loài này; Indonesia cho phép đánh bắt chỉ để nghiên cứu, nuôi trồng, và cấp giấy phép đánh bắt thủ công; Maldives lập lệnh cấm xuất khẩu năm 1995. Papua New Guinea cấm xuất khẩu của cá có chiều dài hơn 65 cm. tổng chiều dài, và Niue đã cấm tất cả các loại hình đánh bắt cho loài này.
Tình trạng khai thác bất hợp pháp không được kiểm soát (IUU)
Philippines, Indonesia và Malaysia là ba nơi xuất khẩu lớn nhất của C. undulatus. Cá có giá bán cao nhất ở châu Á, đặc biệt là nếu bị bắt sống, và nó là một món ăn ở những nơi như Malaysia. Bất hợp pháp không được kiểm soát và không được báo cáo (IUU) các hoạt động đã được xác định là yếu tố đóng góp để sự thất bại của những nỗ lực bảo tồn. Mặc dù CITES đã đặt một lệnh cấm xuất khẩu cá Sú mì, vẫn còn nhiều trường hợp của buôn lậu cá tại biên giới Malaysia–Philippines.
Bốn chính yếu tố đã dẫn đến sự tồn tại của IUU:
Thiếu năng lực: Đó là một thiếu sót thủ tục chính thức và các công việc lực lượng mà theo dõi hoạt động đánh bắt và thi hành các quy định.
Thiếu sót không khuyến khích: Ngư dân không có nhiều lựa chọn để thay thế cho cá Sú mì, do giá trị của nó. Cũng lệnh trừng phạt cho hoạt động bất hợp pháp này không khắc nghiệt đủ để ngăn cản đánh bắt của loài này.
Trách nhiệm yếu kém của hệ thống: Đó là một đường dài của những người tham gia vào buôn bán của loài này, làm cho nó khó khăn để theo dõi nguồn của nó. Cũng như việc nhập khẩu, và người tiêu dùng, bất chấp sự tham gia của họ, không thể chịu trách nhiệm cho việc bất hợp pháp xuất khẩu của Cá sú mì.
Vắng mặt trong điều khiển thương mại: Có khoảng trống trong quy định đánh bắt nội địa, sở hữu, và buôn bán cá là không bị hạn chế — ngư dân có thể khai thác bất hợp pháp nguồn lợi hoặc có ý định cho bất hợp pháp buôn bán, nhưng nếu họ đang trong Malaysia và có giấy phép thích hợp cho phép họ không thể bị truy tố.
Sản lượng xuất khẩu hàng đầu của cá Sú mì ở Malaysia đã ở Sandakan, Papar, và Tawua. Cá có thể được mua từ $45.30 tới $69.43, trong khi những giá bán lẻ dao động từ US$60.38 tới $120.36.[18][19]
^Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cheilinus fasciatus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
^Tupper, Mark (2007). “Identification of nursery habitats for commercially valuable humphead wrasse Cheilinus undulatus and large groupers (Pisces: Serranidae) in Palau”. Marine Ecology Progress Series. 332: 189–199. doi:10.3354/meps332189. ISSN0171-8630.
^Poh, Tun-Min; Fanning, Lucia M. (2012). “Tackling illegal, unregulated, and unreported trade towards Humphead wrasse (Cheilinus undulatus) recovery in Sabah, Malaysia”. Marine Policy. 36 (3): 696–702. doi:10.1016/j.marpol.2011.10.011. ISSN0308-597X.
^Weng, Kevin C.; Pedersen, Martin W.; Raye, Gen A. Del; Caselle, Jennifer E.; Gray, Andrew E. (2015). “Umbrella species in marine systems: using the endangered humphead wrasse to conserve coral reefs”. Endangered Species Research. 27 (3): 251–263. doi:10.3354/esr00663. ISSN1863-5407.