USS Bluefish (SS-222) là một tàu ngầmlớp Gato từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên bluefish (Pomatomus saltatrix), một loài trong họ Cá thu ngừ.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, thực hiện tổng cộng chín chuyến tuần tra và đánh chìm 12 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 50.839 tấn.[7] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1947, nó được huy động trở lại để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh từ năm 1952 đến năm 1953. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1960. Bluefish được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu ngầm Gato được thiết kế cho mục đích một tàu ngầm hạm đội nhằm có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[8] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.525 tấn Anh (1.549 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h) và 9 hải lý trên giờ (17 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày[6] và lặn được sâu tối đa 300 ft (90 m).[6]
Lớp tàu ngầm Gato được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 3 inch/50 caliber, và thường được tăng cường một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo súng máy.50 caliber và .30 caliber.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[9][10]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện ngoài khơi New London, Connecticut và sửa chữa sau chạy thử máy, Bluefish chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó rời Căn cứ Tàu ngầm New London vào ngày 21 tháng 7, 1943, và trình diện để phục vụ cùng Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 72 sau khi đi đến Brisbane, Australia vào ngày 21 tháng 8,[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất
Rời Brisbane vào ngày 9 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ nhất tại khu vực biển Đông,[13] vào ngày 25 tháng 9, Bluefish phóng ngư lôi đánh trúng và gây hư hại cho chiếc tàu buôn Nhật Bản Akashi Maru (3.228 tấn) trong biển Flores, tại vị trí về phía Đông Nam Celebes tại Đông Ấn thuộc Hà Lan. Đang khi đuổi theo Akashi Maru, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu phóng lôiKasasagi (595 tấn) vào ngày 27 tháng 9 tại vị trí 25 nmi (46 km; 29 mi) về phía Nam Celebes, rồi phát hiện và kết liễu Akashi Maru hai ngày sau đó tại vị trí về phía Bắc Wetar.[12]
Rời Fremantle vào tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ tư tại khu vực biển Đông,[14] vào ngày 4 tháng 3, Bluefish đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu tiếp dầu Ominesan Maru (10.536 tấn) trong biển Đông ở vị trí khoảng 300 nmi (560 km; 350 mi) về phía Tây Miri, Sarawak.[12]
Chuyến tuần tra thứ năm
Rời Fremantle vào tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ năm tại khu vực biển Celebes,[15] vào ngày 16 tháng 6, Bluefish đã đánh chìm tàu buôn Nanshin Maru (1.422 tấn) trong biển Celebes về phía Tây Nam Tarakan, Borneo. Đến ngày 21 tháng 6, nó tiếp tục đánh chìm tàu vận chuyển Kanan Maru (3.280 tấn) ở lối tiếp cận phía Nam đi vào eo biển Makassar.[12]
Rời Trân Châu Cảng vào tháng 2, 1945 cho chuyến tuần tra thứ bảy, Bluefish hoạt động dọc bờ biển các đảo chính quốc Nhật Bản;[17] rồi tiếp nối bằng chuyến tuần tra thứ tám xuất phát từ Trân Châu Cảng vào tháng 4 và kết thúc tại Fremantle,[18] cả hai chuyến tuần tra đều không tiêu diệt được mục tiêu nào.
Bluefish được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1] Nó được ghi công đã đánh chìm 12 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 50.839 tấn.[7]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.