Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

Đế quốc Inca

Vương quốc bốn phần
Tên bản ngữ
1438–1533
Hai phiên bản phục dựng kỳ hiệu của Sapa Inca Đế quốc Inca
Hai phiên bản phục dựng kỳ hiệu của Sapa Inca
Cương vực lãnh thổ khoảng năm 1525
Cương vực lãnh thổ khoảng năm 1525
Tổng quan
Vị thếĐế quốc
Thủ đôCusco
(1438–1533)
Ngôn ngữ chính thứcQuechua
Ngôn ngữ thông dụngAymara, Puquina, ngữ tộc Jaqi, Muchik và nhiều ngôn ngữ nhỏ khác.
Tôn giáo chính
Tôn giáo Inca
Chính trị
Chính phủThờ cúng quân chủ, quân chủ tuyệt đối
Sapa Inca 
• 1438–1471
Pachacuti
• 1471–1493
Túpac Inca Yupanqui
• 1493–1527
Huayna Capac
• 1527–1532
Huáscar
• 1532–1533
Atahualpa
Lịch sử
Thời kỳTiền Cô-lôm-bô
• Pachacuti lập quốc
1438
• Nội chiến Inca nổ ra giữa HuáscarAtahualpa
1529–1532
1533
1572
Địa lý
Diện tích 
• 1527[1][2]
2,000,000 km2
(1 mi2)
Dân số 
• 1527
10.000.000
Tiền thân
Kế tục
Vương quốc Chimor
Vương quốc Cusco
Các vương quốc Aymara
Liên hiệp Mapuche
Tân Castilla
Tân Toledo
Tân Andalusia
Tân Inca
Hiện nay là một phần của Argentina
 Bolivia
 Chile
 Colombia
 Ecuador
 Peru

Đế quốc Inca hay Đế quốc Inka (tiếng Quechua: Tawantinsuyu, nghĩa là "tứ địa phương" [4]), là đế quốc lớn nhất ở Châu Mỹ thời kì tiền Columbus.[5] Trung tâm hành chính, chính trị và quân sự của đế quốc là Cuzco. Nền văn minh Inca khởi nguồn từ vùng cao nguyên Peru vào khoảng đầu thế kỷ XIII. Thành trì cuối cùng của đế quốc rơi vào tay Tây Ban Nha năm 1572.

Từ năm 1438 đến 1533, người Inca kiểm soát phần lớn phía tây Nam Mỹ, tập trung ở dãy núi Andes, thông qua các cuộc chinh phạt và đồng hóa hòa bình. Thời kì hoàng kim, đế quốc này thống nhất toàn bộ Peru, tây nam Ecuador, tây và nam trung bộ Bolivia, tây bắc Argentina, hầu hết Chile ngày nay và tây nam Colombia sánh ngang với các đế quốc Á-Âu khác.

Quốc ngữ là tiếng Quechua.[6] Nhiều tập tục thờ cúng địa phương tồn tại trong đế quốc, hầu hết thờ các huaca. Quốc giáo tôn thờ thần mặt trời Inti và nó quan trọng hơn các tôn giáo khác như Pachamama.[7] Người Inca coi vua của họ, Sapa Inca, là "con trai của mặt trời".[8]

Đế quốc Inca không sở hữu những yếu tố công nghệ văn minh của Cựu thế giới. Nhà nhân chủng học Gordon McEwan có bình rằng:[9]

Người Inca chưa sáng chế ra bánh xe. Họ không có thú để cưỡi hoặc súc vật để kéo xe hàng... [Họ] thiếu hiểu biết về sắt và thép... Hơn nữa, họ còn thiếu cả chữ viết... Mặc cho những thiếu sót căn bản ấy, người Inca đã có thể kiến thiết một đế quốc vĩ đại bậc nhất trong lịch sử nhân loại.

— Gordon McEwan, The Incas: New Perspectives

Những thành tựu của Đế quốc Inca bao gồm những kiến trúc phi thường, đặc biệt là thuật điêu khắc đá, mạng lưới đường bộ khổng lồ dẫn đến mọi góc của đế quốc.

Nghề dệt vải mịn, sử dụng nút dây (quipu) để lưu giữ số liệu và liên lạc phương xa, những sáng kiến nông nghiệp thích nghi với môi trường khắc nghiệt, và hệ thông điều hành áp đặt lên người dân và giai cấp lao động.

Các học giả mô tả nền kinh tế Inca khá mâu thuẫn:[10]

... phong kiến, nô dịch, chủ nghĩa xã hội (tùy theo cách nhìn của từng người nó sẽ là thiên đường chủ nghĩa xã hội hoặc độc tài chủ nghĩa xã hội)

— Darrell E. La Lone, The Inca as a Nonmarket Economy: Supply on Command versus Supply and Demand

Nền kinh tế của họ không có tiền và không có thị trường. Họ trao đổi hàng hóa và dịch vụ theo quan hệ đối ứng giữa các cá nhân, một cộng đồng, một nhóm người hoặc các nhà lãnh đạo Inca. "Sưu thuế" đối với dân là phải đóng góp lao động cho Đế quốc. Những nhà cai trị Inca (sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất) trả ơn bằng cách ban đất canh tác, hàng hóa và thức ăn đồ uống trong những dịp lễ hội cho nhân dân.[11]

Từ nguyên

Nội danh của Đế quốc Inca là Tawantinsuyu,[4] nghĩa là "tứ suyu". Trong tiếng Quechua, tawa là bốn và -ntin là hậu tố để chỉ một nhóm, do đó tawantin nghĩa là bộ tứ, ở đây chỉ tứ suyu ("vùng" hoặc "tỉnh") nằm dưới ách cai trị của người Inca. Tứ suyu này bao gồm: Chinchaysuyu (bắc), Antisuyu (đông; mép rừng Amazon), Qullasuyu (nam) và Kuntisuyu (tây). Tiếng Tây Ban Nha phiên âm cái tên này là Tahuatinsuyo hoặc Tahuatinsuyu.

Danh từ Inka có nghĩa là "người cai trị" hoặc "lãnh chúa" trong tiếng Quechua, ý chỉ giai cấp thống trị hoặc gia tộc thống trị.[12] Người Inca chỉ là thành phần sắc tộc rất nhỏ khi so với toàn bộ nhân khẩu của đế chế. Dân số của họ có lẽ chỉ nằm trong khoảng từ 15.000-40.000 người, nhưng họ cai trị một đế chế trên 10 triệu người.[13]

Lịch sử

Sử liệu

Biên niên sử của người Tây Ban Nha

Hầu hết sử lược về đế quốc Inca được tổng hợp lại từ nhiều biên niên sử do các tác giả Tây Ban Nha khác nhau biên soạn (các nhà biên niên sử bản địa và mestizo sau này cũng có các đóng góp thêm). Các tác giả này đã viết lên "lịch sử Inca" dựa trên những câu chuyện thu thập được sau sự sụp đổ của nhà nước Inca.[14] Các nhà biên niên sử tiên phong vấp phải các khó khăn nhất định khi ghi chép lại lịch sử của đất nước này: rào cản ngôn ngữ và thế giới quan khác biệt hoàn toàn so với người châu Âu.[14] Điều này, kể thêm những năm tháng chiến tranh tranh triền miên trước đó, dẫn đến nhiều điểm mâu thuẫn giữa các ghi chép và một ví dụ tiêu biểu cho nó là niên đại của các Sapa Inca; trong nhiều biên niên sử, các chiến công, sự kiện và sự tích giống nhau lại được quy cho các nhà cai trị khác nhau.[14]

Điều quan trọng cần lưu ý là các tác giả khác nhau có mục địch khác nhau khi họ chép sử. Trong trường hợp của các nhà biên niên sử Tây Ban Nha, mục đích của họ là "hợp pháp hóa cuộc chinh phục dựa trên lịch sử". Vì lẽ này, nhiều cuốn biên niên sử mô tả người Inca là những kẻ chinh phạt khát máu và do vậy, người Inca không có quyền chính đáng gì đối với vùng đất mà họ cướp. Trong một phiên bản khác, các nhà biên niên sử thuộc Giáo hội Công giáo hợp pháp hóa việc truyền giáo bằng cách hạ thấp các tín ngưỡng và tôn giáo của người Inca, coi đó là tà đạo, khẳng định người Inca là con trai của Noah và liên hệ các vị thần Inca với niềm tin Kinh thánh hoặc văn hóa dân gian châu Âu.[14] Tương tự như vậy, có những nhà biên niên sử bản địa và mestizo ca ngợi đế quốc hoặc bất kỳ panaca (gia tộc) nào mà họ có quan hệ, chẳng hạn như trường hợp của tác giả Inca Garcilaso de la Vega. Trong tác phẩm Comentario reales de los incas, ông mô tả một xã hội Inca lý tưởng, nơi nghèo đói không tồn tại, của cải và tài nguyên được khai thác và phân phối hợp lý.[15]

Khởi nguyên

Đế quốc Inca là chương cuối trong lịch sử ngàn năm của các nền văn minh Andes. Các học giả coi văn minh Andes là một trong năm nền văn minh "thuần túy" của nhân loại, nghĩa là nó độc đáo và bắt nguồn từ chính văn hóa bản địa chứ không bị ảnh hưởng hoặc lấy từ các nền văn minh khác.[16]

Đế quốc Inca là hậu duệ của hai đế quốc lớn tại Andes: nhà nước Tiwanaku (khoảng 300–1100 SCN) quanh Hồ Titicacanhà nước Wari hoặc Huari (khoảng 600-1100 SCN) quanh trung tâm thành phố Ayacucho. Wari chiếm cứ Cuzco trong khoảng 400 năm. Do đó, nhiều đặc điểm của Đế quốc Inca bắt nguồn từ các nền văn hóa Andes đa sắc tộc trước đó.[17]

Carl Troll lập luận rằng sự phát triển của nhà nước Inca ở miền trung Andes là do các điều kiện thuận lợi để sản xuất loại thực phẩm thiết yếu chuño. Chuño, có thể được lưu trữ trong thời gian dài, được làm bằng khoai tây sấy khô ở nhiệt độ đóng băng vào ban đêm ở vùng cao nguyên phía nam Peru. Mối liên kết giữa nhà nước Inca và chuño bị nghi ngờ, do rằng khoai tây và các loại cây trồng khác như ngô cũng có thể được sấy khô vào ban ngày.[16] Troll cũng lập luận rằng lạc đà không bướu có thể được tìm thấy với số lượng lớn ở khu vực này.[18] Mối liên hệ giữa sự phân bố của lạc đà Alpaca và lạc đà không bướu với nhà nước Inca là một vấn đề cần được nghiên cứu.[19] Điểm thứ ba, Troll chỉ ra công nghệ tưới tiêu là lợi thế to lớn cho việc xây dựng nhà nước Inca.[19] Tuy Troll đưa ra giả thuyết về ảnh hưởng của môi trường lên Đế quốc Inca, ông lại phản đối chủ nghĩa môi trường quyết định (học thuyết này cho rằng môi trường định hình quỹ đạo mà các nền văn minh phát triển sẽ đi theo), cho rằng văn hóa nằm ở cốt lõi của nền văn minh Inca.[19]

Tái tổ chức và hình thành

Trong thời gian cai trị từ 1438 đến 1471 Pachacútec mở rộng lãnh thổ Inca tại vùng trung tâm của Andes từ hồ Titicaca đến Huní.Pachacuti tái lập vương quốc Cuzco thành Tahuantinsuyu, bao gồm một chính quyền trung ương với người Inca đứng đầu và bốn chính quyền tỉnh với các nhà lãnh đạo quyết đoán ở bốn phần của đất nước: Chinchasuyu (Tây Bắc), Antisuyu (Đông Bắc), Kuntisuyu (Tây Nam) và Qullasuyu (Đông Nam).[20] Lá cờ của vương quốc là lá cờ cầu vồng và Cuzco đã phát triển thành trung tâm tế lễ, kinh tế và văn hóa. Pachacútec cho lập ruộng bậc thang trong vùng để trồng ngô nhằm bảo đảm cung cấp lương thực cho người dân. Nhiều kênh đào chạy xuyên qua toàn thành phố dẫn đến sông Río SapphiRío Tullumayo cung cấp nước sạch cho dân cư và giữ thành phố sạch sẽ. Pachacuti được cho là đã xây dựng Machu Picchu, làm cung điện hoặc nơi nghỉ mát mùa hè, và cũng có thể là một trạm nông nghiệp.[21]

Pachacuti gửi gián điệp sang các vương quốc lân bang, rồi dâng lên vua của họ những món quà xa xỉ và hứa rằng nếu họ chịu trở thành thần dân của đế quốc Inca, họ sẽ trở nên giàu có như vậy.

Hầu hết các vương quốc đều quy phục trong hòa bình. Những vương quốc khước từ thì bị đánh chiếm chinh phạt. Con của những vị vua này được triệu về Cuzco để học chính trị Inca rồi được đưa về nước để trị vì.

Mở rộng và củng cố

Pachacútec Yupanqui

Theo truyền thống, con trai vua Inca sẽ lãnh đạo quân đội. Con trai của Pachacuti là Túpac Inca Yupanqui bắc phạt vào năm 1463 tới những năm 1471 khi vua cha băng hà. Chiến dịch quan trọng nhất của Túpac Inca là cuộc xâm lược vương quốc Chimor, kình địch duy nhất của người Inca tại bờ biển Peru. Đế chế của Túpac Inca sau đó đánh lên phía bắc vào Ecuador và Colombia ngày nay.

Con trai của Túpac Inca là Huayna Cápac sáp nhập một phần đất nhỏ ở phía bắc Ecuador ngày nay. Ở thời kì đỉnh cao, Đế quốc Inca bao gồm Peru, miền tây và nam miền trung Bolivia, phía tây nam Ecuador và đại bộ phận Chile ngày nay, phía bắc sông Maule. Các sử liệu truyền thống khẳng định cuộc Nam tiến bị hoãn lại sau trận sông Maule nơi họ gặp phải sự kháng cự ngoan cường từ tộc Mapuche.[22] Quan điểm này bị thách thức bởi nhà sử học Osvaldo Silva, người lập luận rằng khuôn khổ chính trị xã hội của người Mapuche mới là lí do gây ra khó khăn trong việc trị vì.[22] Silva đồng ý rằng trận Maule là một bế tắc, nhưng cho rằng người Inca thiếu động lực để chinh phục không như những xã hội phức tạp hơn như vương quốc Chimor chẳng hạn.[22] Silva không đồng tình với thời gian được đưa ra bởi lịch sử truyền thống cho trận chiến: cuối thế kỷ XV dưới triều đại vua Topa Inca Yupanqui (1471–93).[22] Thay vào đó, ông đặt nó vào năm 1532 trong cuộc nội chiến Inca.[22] Tuy nhiên, Silva đồng ý với tuyên bố rằng phần lớn các cuộc chinh phạt của người Inca được thực hiện vào cuối thế kỷ XV.[22] Vào thời Nội chiến Inca, một đội quân Inca, theo Diego de Rosales, đã đàn áp một cuộc nổi dậy của người Diaguita vùng Valles transversales.[22]

Cuộc chinh phạt lưu vực Amazon gần sông Chinchipe đã bị người Shuar chặn lại vào năm 1527.[23] Đế quốc mở rộng vào Argentina và Colombia. Hầu hết phần phía nam của đế quốc Inca, có tên là Qullasuyu, nằm trên Cao nguyên Andes.

Nội chiến Inca và suy vong

Hình ảnh đầu tiên của người Inca ở châu Âu, Pedro Cieza de León, Crónica del Perú, 1553

Các conquistador do Francisco Pizarro dẫn đầu và các anh em của ông tiến xuống nam Panama và thâm nhập lãnh thổ Inca vào năm 1526.[24] Sau một cuộc thám hiểm khác vào năm 1529, Pizarro về Tây Ban Nha hỏi xin chinh phục vùng đất và được hoàng tộc chấp thuận. Cụ thể là như sau:"Vào tháng 7 năm 1529, Nữ hoàng Tây Ban Nha đã ký sắc chỉ cho phép Pizarro chinh phục nước Inca. Pizarro sẽ trở thành thống đốc và thống soái của các cuộc chinh phạt tại Peru, hoặc cái tên mà người Tây Ban Nha giờ gọi vùng đất này, Tân Castile."[25]

Khi các conquistador quay trở lại vào năm 1532, hai con trai của vị hoàng đế Huayna Capac, là Huáscar và Atahualpa, đang tranh giành ngôi báu gây bất ổn xã tắc và suy yếu đế quốc. Hơn vậy, bệnh đậu mùa, cúm, sốt phát ban và sởi giờ đã lan từ Trung Mỹ tới nơi đây gây ra cái chết cho hàng triệu người dân của đế quốc.

Pizarro chỉ có 168 người, một khẩu súng thần công và 27 con ngựa. Các conquistador mang theo thương, súng hỏa mai, áo giáp thép và trường kiếm. Người Inca sử dụng vũ khí làm từ gỗ, đá, đồngđồng đỏ, áo giáp của họ thì làm từ sợi Alpaca. Đây đều là những bất lợi lớn về công nghệ - không vũ khí nào của họ có thể xuyên thủng áo giáp thép của Tây Ban Nha. Ngoài ra, do châu Mỹ không có ngựa, người Inca không biết cách đối phó với kỵ binh. Tuy nhiên, người Inca vẫn là những chiến binh giỏi khi đánh bại được cả người Mapuche, tộc người mà trong nhiều năm tới sẽ gây khó dễ cho tham vọng chinh phục của Tây Ban Nha.

Trận chiến đầu tiên giữa người Inca và người Tây Ban Nha xảy ra trên đảo Puná, gần thành phố Guayaquil, Ecuador ngày nay, trên bờ biển Thái Bình Dương; Pizarro sau đó thành lập thành phố Piura vào tháng 7 năm 1532. Hernando de Soto được gửi vào nội địa để trinh thám và trở về với lời mời gặp vị Inca, Atahualpa, người đã chiến thắng em trai mình và đang nghỉ ngơi tại Cajamarca với 80.000 quân đồn trú ở đó, hiện tại chỉ được trang bị các công cụ săn bắn (dao và dây thòng lòng để săn lạc đà không bướu)

Pizarro và một số, đáng chú ý nhất là Vincente de Valverde, đã gặp mặt vị Inca, người chỉ mang theo một đoàn tùy tùng nhỏ. Người Inca mời họ uống chicha trong một chiếc cốc vàng nghi lễ, nhưng người Tây Ban Nha khước từ. Người phiên dịch Tây Ban Nha, Đan sĩ Vincente, đã đọc "Requerimiento" yêu cầu vị Inca và toàn bộ đế quốc chấp nhận sự cai trị của vua Charles I của Tây Ban Nha và cải đạo Cơ đốc. Atahualpa từ chối và yêu cầu họ rời đi. Chớp thời cơ quân Inca bị xao nhãng, người Tây Ban Nha phục kích và bắt vị Inca làm con tin và bắt họ phải hợp tác.

Atahualpa cho người Tây Ban Nha đủ vàng để lấp đầy căn phòng mà ông đang bị cầm tù và số bạc gấp đôi số vàng đó. Người Inca giao nộp khoản tiền chuộc này, nhưng Pizarro đã lừa dối họ, từ chối thả vị Inca ra. Trong thời gian Atahualpa bị giam cầm, Huáscar bị ám sát ở nơi khác. Người Tây Ban Nha cho rằng vụ ám sát này là do Atahualpa; họ đã lấy cớ này để kết án Atahualpa và xử tử ông, vào tháng 8 năm 1533.[26]

Mặc dù "thất bại" thường ám chỉ sự mất mát không mong muốn trong trận chiến, nhưng phần lớn giới tinh hoa Inca "thực sự hoan nghênh quân xâm lược Tây Ban Nha với tư cách là những người giải phóng và sẵn sàng chia sẻ quyền cai trị nông dân và thợ mỏ vùng Andes."[27]

Những người Inca cuối cùng

Atahualpa, vị Sapa Inca cuối cùng, bị hành quyết bởi quân đội Tây Ban Nha vào ngày 29 Tháng 8 năm 1533.
Quang cảnh cổ trấn Machu Picchu
Thành cổ Sacsayhuamán tại Cuzco

Người Tây Ban Nha cho em trai của Atahualpa là Manco Inca Yupanqui lên nắm quyền lực trong lúc họ đi bình định phương Bắc. Được một thời gian, Manco chạy trốn, tổ chức kháng chiến. Manco sử dụng lục đục nội bộ của TBN để tạo lợi thế cho mình, chiếm lại thành Cuzco năm 1536, nhưng bị Tây Ban Nha tái chiếm sau đó. Manco Inca bèn rút lui vào vùng núi Vilcabamba và thành lập Nhà nước Tân Inca, nơi ông và những người kế vị cai trị thêm 36 năm nữa, đôi khi quấy nhiễu hoặc kích động nổi dậy chống Tây Ban Nha. Năm 1572, thành trì cuối cùng của người Inca thất thủ và vị Inca cuối cùng, Túpac Amaru, con trai của Manco, bị bắt và xử tử.[28] Sự kiện này chấm dứt sự kháng cự cuộc chinh phạt của Tây Ban Nha dưới quyền lực chính trị của nhà nước Inca.

Xã hội

Dân số

Số lượng người sinh sống tại Tawantinsuyu ở mức cao nhất là không chắc chắn, với ước tính dao động từ 4-37 triệu. Hầu hết các ước tính dân số nằm trong khoảng từ 6 đến 14 triệu. Người Inca có giữ các số liệu nhân khẩu trong những nút thắt quipu, nhưng cách đọc chúng đã bị mai một và thất truyền qua nhiều đời dưới sự cai trị của Tây Ban Nha.[29]

Tuổi và xác định giới tính

Tỷ lệ tử vong sơ sinh cao trong Đế quốc Inca khiến tất cả trẻ sơ sinh được đặt tên là ‘wawa’ khi mới chào đời. Hầu hết các gia đình không đầu tư quá nhiều vào con của họ cho đến khi chúng được hai hoặc ba tuổi. Khi đứa trẻ lên ba, buổi lễ "đến tuổi" gọi là rutuchikuy được tổ chức. Đối với người Inca, buổi lễ này chỉ ra rằng đứa trẻ đã bước vào giai đoạn "thiếu hiểu biết". Trong buổi lễ này, gia đình sẽ mời tất cả các người thân đến nhà của họ để ăn và nhảy, và sau đó mỗi thành viên trong gia đình sẽ nhận được một lọn tóc từ đứa trẻ. Sau đó, người cha sẽ cạo trọc đầu đứa trẻ. Giai đoạn này của trẻ con được coi là "thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm và thiếu lí sự, thứ mà đứa trẻ sẽ phát triển sau này."[30] Trong xã hội Inca, từ giai đoạn thiếu hiểu biết đến phát triển, trẻ phải học được vai trò của mình dựa trên giới tính của chúng.

Nghi thức quan trọng tiếp theo là kỷ niệm sự trưởng thành của một đứa trẻ. Không giống lễ đến tuổi, lễ trưởng thành đánh dấu sự dậy thì của đứa trẻ. Lễ kỷ niệm dậy thì này được gọi là warachikuy cho bé trai và qikuchikuy cho bé gái. Nghi lễ warachikuy bao gồm khiêu vũ, nhịn ăn, phô trương sức mạnh và các nghi lễ gia đình. Chàng trai cũng sẽ được tặng quần áo mới và dạy cách hành xử như một người đàn ông chưa cưới. Các qikuchikuy đánh dấu sự khởi đầu của kinh nguyệt, cô gái sẽ phải đi vào rừng một mình và chỉ quay trở lại sau khi chảy máu kết thúc. Trong rừng, cô gái sẽ phải nhịn ăn, và một khi trở về, cô gái sẽ được đặt tên mới, quần áo người lớn và lời khuyên. Giai đoạn "dại dột" này của cuộc đời là thời gian những người trẻ tuổi được phép quan hệ tình dục mà không phải làm cha mẹ.[30]

Trong độ tuổi từ 20 đến 30, mọi người được coi là thanh niên, "chín muồi cho suy nghĩ nghiêm túc và lao động."[39] Thanh niên có thể giữ thanh xuân của mình bằng cách sống ở nhà và giúp đỡ trong gia đình của họ. Những người trẻ tuổi chỉ đạt đến sự trưởng thành và độc lập hoàn toàn khi họ kết hôn.

Vào cuối đời, các thuật ngữ dành cho nam và nữ biểu thị sự mất đi sức sống tình dục và tình người. Cụ thể, giai đoạn "suy đồi" biểu thị sự mất mát về tinh thần và suy giảm thể chất.

Bảng 7.1 từ bài viết của R. Alan Covey[30]
Tuổi Giai đoạn Thuật ngữ cho nữ giới Thuật ngữ cho nam giới
< 3 Khái niệm Wawa Wawa
3–7 Thiếu hiểu biết (chưa biết nói) Warma Warma
7–14 Phát triển Thaski (hoặc P'asña) Maqt'a
14–20 Dại dột (động dục) Sipas (chưa cưới) Wayna (chưa cưới)
20+ Trưởng thành (tình thần và thể chất) Warmi Qhari
70 Ốm yếu Paya Machu
90 Già yếu Ruku Ruku

Đọc thêm

Chú thích

  1. ^ Turchin, Peter; Adams, Jonathan M.; Hall, Thomas D (tháng 12 năm 2006). “East-West Orientation of Historical Empires”. Journal of World-Systems Research. 12 (2): 222. ISSN 1076-156X. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2016.
  2. ^ Rein Taagepera (tháng 9 năm 1997). “Expansion and Contraction Patterns of Large Polities: Context for Russia”. International Studies Quarterly. 41 (3): 497. doi:10.1111/0020-8833.00053. JSTOR 2600793. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2018.
  3. ^ Namnama, Katrina; DeGuzman, Kathleen, “The Inca Empire”, K12, US, Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2008
  4. ^ a b McEwan 2008, tr. 221.
  5. ^ Schwartz, Glenn M.; Nichols, John J. (2010). After Collapse: The Regeneration of Complex Societies. University of Arizona Press. ISBN 978-0-8165-2936-0.
  6. ^ “Quechua, the Language of the Incas”. ngày 11 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  7. ^ “The Inca – All Empires”.
  8. ^ "The Inca." The National Foreign Language Center at the University of Maryland. ngày 29 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
  9. ^ McEwan, Gordon F. (2006). The Incas: New Perspectives. New York: W.W. Norton & Co. tr. 5.
  10. ^ La Lone, Darrell E. “The Inca as a Nonmarket Economy: Supply on Command versus Supply and Demand”. tr. 292. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2017.
  11. ^ Morris, Craig and von Hagen, Adrianna (2011), The Incas, London: Thames & Hudson, pp. 48–58
  12. ^ “Inca”. American Heritage Dictionary. Houghton Mifflin Company. 2009.
  13. ^ McEwan 2008, tr. 93.
  14. ^ a b c d Rostworowski Tovar, María (tháng 10 năm 2010). “1. La historia de los incas”. Incas. Biblioteca Imprescindibles Peruanos. Perú: Empresa Editora El Comercio S. A. - Producciones Cantabria S.A.C. tr. 17–25. ISBN 978-612-4069-47-5.
  15. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên incas-rostw-2
  16. ^ Upton, Gary and von Hagen, Adriana (2015), Encyclopedia of the Incas, New York: Rowand & Littlefield, p. 2. Some scholars cite 6 or 7 pristine civilizations.
  17. ^ McEwan, Gordon F. (2006), The Incas: New Perspectives, New York: W. W. Norton & Company, p. 65
  18. ^ Hardoy, Jorge Henríque (1973). Pre-Columbian Cities. tr. 24. ISBN 978-0-8027-0380-4.
  19. ^ a b c Gade, Daniel W. (1996). “Carl Troll on Nature and Culture in the Andes (Carl Troll über die Natur und Kultur in den Anden)”. Erdkunde. 50 (4): 301–16.
  20. ^ The three laws of Tawantinsuyu are still referred to in Bolivia these days as the three laws of the Qullasuyu.
  21. ^ Weatherford, J. McIver (1988). Indian Givers: How the Indians of the Americas Transformed the World. New York: Fawcett Columbine. tr. 60–62. ISBN 0-449-90496-2.
  22. ^ a b c d e f g Silva Galdames, Osvaldo (1983). “¿Detuvo la batalla del Maule la expansión inca hacia el sur de Chile?”. Cuadernos de Historia (bằng tiếng Tây Ban Nha). 3: 7–25. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  23. ^ Ernesto Salazar (1977). An Indian federation in lowland Ecuador (PDF). International Work Group for Indigenous Affairs. tr. 13. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013.
  24. ^ *Juan de Samano (ngày 9 tháng 10 năm 2009). “Relacion de los primeros descubrimientos de Francisco Pizarro y Diego de Almagro, 1526”. bloknot.info (A. Skromnitsky). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2009.
  25. ^ Somervill, Barbara (2005). Francisco Pizarro: Conqueror of the Incas. Compass Point Books. tr. 52. ISBN 978-0-7565-1061-9.
  26. ^ McEwan 2008, tr. 79.
  27. ^ Raudzens, George biên tập (2003). Technology, Disease, and Colonial Conquest. Boston: Brill Academic. tr. xiv.
  28. ^ McEwan 2008, tr. 31.
  29. ^ McEwan 2008, tr. 93–96. Con sô 10 triệu ở đây là ước tính tầm trung bình..
  30. ^ a b c Covey, R. Alan. "Inca Gender Relations: from household to empire." Gender in cross-cultural perspective. Brettell, Caroline; Sargent, Carolyn F., 1947 (Seventh edition ed.). Abingdon, Oxon. ISBN 978-0-415-78386-6. OCLC 962171839.

Thư mục

Nguồn cổ sử

  • de la Vega, Garcilaso (1609). Comentarios Reales de los Incas [Tường thuật hoàng tộc về người Inca] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lisbon, Bồ Đào Nha.

Nguồn hiện đại

Sách chuyên khảo
Bài báo và tập san
Kỷ yếu và tuyển tập
  • Nhiều tác giả (1988). Richard W. Keatinge (biên tập). Peruvian Prehistory: An Overview of Pre-Inca and Inca Society [Tiền sử Peru: Một cái nhìn tổng quát về xã hội Inca và tiền Inca]. Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge. ISBN 9780521275552.
  •  ———  (2001). Terence N. D'Altroy & Christine A. Hastorf (biên tập). Empire and Domestic Economy [Đế quốc và kinh tế quốc nội]. Hoa Kỳ: Springer US. ISBN 9780306471926.
  •  ———  (2010). Michael A. Malpass & Sonia Alconini (biên tập). Distant Provinces in the Inka Empire: Toward a Deeper Understanding of Inka Imperialism [Các tỉnh biên viễn của Đế quốc Inka: Tiến tới một hiểu biết sâu sắc hơn về chủ nghĩa đế quốc Inka]. Hoa Kỳ: Nhà xuất bản Đại học Iowa. ISBN 9781587299339.
  •  ———  (2015). Jose Barreiro & Ramiro Matos Mendieta (biên tập). The Great Inka Road: Engineering an Empire [Đại Lộ Inka: Thiết kế một Đế quốc]. Hoa Kỳ: Smithsonian. ISBN 9781588344953.
  •  ———  (2015). Izumi Shimada (biên tập). The Inka Empire: A Multidisciplinary Approach [Đế quốc Inka: Một hướng tiếp cận đa ngành]. Hoa Kỳ: Nhà xuất bản Đại học Texas. ISBN 9780292760790.
  •  ———  (2015). Izumi Shimada & James L. Fitzsimmons (biên tập). Living with the Dead in the Andes [Sống với người chết ở Andes]. Hoa Kỳ: Nhà xuất bản Đại học Arizona. ISBN 9780816531745.
  •  ———  (2017). Agustina Scaro; Clarisa Otero & Maria Beatriz Cremonte (biên tập). Pre-Inca and Inca Pottery: Quebrada de Humahuaca, Argentina [Đồ gốm Inca và tiền-Inca: Quebrada de Humahuaca, Argentina]. Đức: Springer International Publishing. ISBN 9783319505749.
  •  ———  (2018). R. Alan Covey & Sonia Alconini (biên tập). The Oxford Handbook of the Incas [Cẩm nang Oxford về người Inca]. Hoa Kỳ: Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 9780190219369.
  •  ———  (2019). Brenda J. Bowser & Justin Jennings (biên tập). Drink, Power, and Society in the Andes [Thức uống, Quyền lực, và Xã hội ở Andes]. Hoa Kỳ: Nhà xuất bản Đại học Florida. ISBN 9780813065816.
  •  ———  (2021). Andrés Troncoso; Diego Salazar & Frances M. Hayashida (biên tập). Rethinking the Inka: Community, Landscape, and Empire in the Southern Andes [Suy xét lại người Inka: Cộng đồng, Quang cảnh, và Đế quốc ở Nam Andes]. Hoa Kỳ: Nhà xuất bản Đại học Texas. ISBN 9781477323878.

Liên kết ngoài

Read other articles:

この項目では、フランスの王宮について説明しています。ヴェルサイユの曖昧さ回避については「ヴェルサイユ (曖昧さ回避)」をご覧ください。 この記事は検証可能な参考文献や出典が全く示されていないか、不十分です。出典を追加して記事の信頼性向上にご協力ください。(このテンプレートの使い方)出典検索?: ヴェルサイユ宮殿 – ニュース · 書

 

54°42′54″N 6°12′36″W / 54.715°N 6.210°W / 54.715; -6.210 Northern Regional CollegeEstablished2007PrincipalTerri Scott[1]LocationBallymena, Ballymoney, Coleraine, Larne, Magherafelt and Newtownabbey, Northern IrelandWebsitewww.nrc.ac.uk Northern Regional College (or NRC) is a third level educational institution in Northern Ireland, United Kingdom. The college has six campuses around the north-east of Northern Ireland (County Antrim and eastern County...

 

Halaman ini berisi artikel tentang salah satu kelompok bangsa Turk. Untuk kegunaan lain, lihat Oghuz. Negara Oguz Yabgu di Kazakhstan, 750-1055 Oghuz, Oguz atau Ghuzz Turk adalah sebuah bangsa Turk barat yang berbicara dengan bahasa Oghuz dari subdivisi umum dari rumpun bahasa Turkik.[1] Pada abad ke-8, mereka membentuk konfederasi suku yang secara konvensional dinamakan Negara Oghuz Yabgu di Asia tengah. Nama Oghuz adalah sebuah kata Bahasa Turki yang umum untuk suku. Sumber-sumber B...

Highway in Florida, United States of America  State Road 679 & State Road 682SR 679 highlighted in red and SR 682 in blueRoute informationMaintained by FDOTState Road 679Length4.816 mi[1] (7.751 km)South endFort De Soto ParkNorth end SR 682 in St. PetersburgState Road 682Length3.721 mi[2] (5.988 km)West end SR 699 in St. Pete BeachEast end I-275 / US 19 in St. Petersburg Loc...

 

Museum Kleines Klingental Das Museum Kleines Klingental in Basel (kurz auch Klingentalmuseum) befindet sich im Gründungsbau «Kleines Klingental» des ehemaligen Nonnenklosters Klingental aus dem Jahr 1274 und wurde 1938/39 als «Stadt- und Münstermuseum» gegründet. Das Museum beherbergt die Sammlung originaler Skulpturen des Basler Münsters, die am Münster bei Restaurierungen durch Kopien ausgewechselt wurden. Ausserdem beherbergt das Museum ein Modell der Stadt Basel, wie sie im 17. J...

 

Russian proto-fascist politician (1855–1921) You can help expand this article with text translated from the corresponding article in Russian. (October 2012) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of the Russian article. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators must revise errors as necessary and confirm that the translation is accurate, rather than simply copy-pastin...

Method of breaking ties in sports The away goals rule is a method of tiebreaking in association football and other sports when teams play each other twice, once at each team's home ground. Under the away goals rule, if the total goals scored by each team are equal, the team that has scored more goals away from home wins. This is sometimes expressed by saying that away goals count double in the event of a tie,[1] though in practice the team with more away goals is simply recorded as th...

 

Esta página cita fontes, mas que não cobrem todo o conteúdo. Ajude a inserir referências. Conteúdo não verificável pode ser removido.—Encontre fontes: ABW  • CAPES  • Google (N • L • A) (Setembro de 2020) Brasileirão Série Betano Série B Campeonato Brasileiro de Futebol - Série B Dados gerais Organização CBF Edições 41 (17 por pontos corridos) Outros nomes Campeonato Brasileiro Série BSérie BSegunda DivisãoSegun...

 

Artikel ini sebatang kara, artinya tidak ada artikel lain yang memiliki pranala balik ke halaman ini.Bantulah menambah pranala ke artikel ini dari artikel yang berhubungan atau coba peralatan pencari pranala.Tag ini diberikan pada Oktober 2022. Buku ilmu antik adalah karya sejarah asli, misalnya buku atau makalah teknis, tentang sains, matematika, dan kadang-kadang teknik. Buku-buku ini adalah rujukan utama yang penting untuk kajian sejarah sains dan teknologi, yang dapat memberikan wawasan b...

Ancienne abbaye Notre-Dame de Goaille L'ancienne abbaye sous la cascade de Gouaille. Ordre Augustins Fondation 1199 Fermeture 1773 Diocèse Archidiocèse de Besançon Fondateur Gaucher IV de Salins Localisation Pays France Région Bourgogne-Franche-Comté Département Jura Lieu-dit Goaille Commune Salins-les-Bains Coordonnées 46° 56′ 21″ nord, 5° 54′ 22″ est Géolocalisation sur la carte : France Ancienne abbaye Notre-Dame de Goaille Géolocalisat...

 

  此條目介紹的是高捷少女為題材的輕小說作品。关于高捷少女的整體介紹,请见「高捷少女」。 前進吧!!高捷少女 進め!たかめ少女 LET'S GO! K.R.T. GIRLS 輕小說:前進吧!!高捷少女 日常 作者 啞鳴、陽炎 插圖 Kaworu 出版社 尖端出版 發售日 2015年8月6日 冊數 全1冊 輕小說:前進吧!!高捷少女 音躍 作者 陽炎、甜咖啡 插圖 Riv 出版社 尖端出版 發售日 2016年4月7日 �...

 

N,N-Diethyl-o-toluidine CD-2 hydrochloride Names IUPAC name 4-N,4-N-diethyl-2-methylbenzene-1,4-diamine Identifiers CAS Number base: 148-71-0 Yhydrochloride: 2051-79-8 Y 3D model (JSmol) base: Interactive imagehydrochloride: Interactive image ChEMBL base: ChEMBL2094307 ChemSpider base: 60694hydrochloride: 67481 ECHA InfoCard 100.016.483 EC Number base: 205-722-1hydrochloride: 218-130-3 PubChem CID base: 67364hydrochloride: 74920...

Children's novel by Tom AnglebergerThis article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: The Strange Case of Origami Yoda – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (May 2023) (Learn how and when to remove this template message)The Strange Case of Origami Yoda AuthorTom AnglebergerCountryUnited StatesLanguageEn...

 

vteLists of United Kingdom locations Aa-Ak Al Am-Ar As-Az Bab-Bal Bam-Bap Bar Bas-Baz Bea-Bem Ben-Bez Bi Bla-Blac Blad-Bly Boa-Bot Bou-Boz Bra Bre-Bri Bro-Bron Broo-Brt Bru-Bun Bur-Bz Ca-Cap Car-Cd Ce-Chap Char-Che Chi-Ck Cl-Cn Co-Col Com-Cor Cos-Cou Cov-Coy Cra Cre-Croc Croe-Cros Crot-Croz Cru-Cu Cw-Cz Da-Dam Dan-Ddu De-Dee Deo-Dn Do-Dor Dos-Doz Dr Ds-Dz Ea-Eass East A-D East E-L East M-Y Eat-Ee Ef-El Em-Ez Fa-Fe Ff-Fn Fo Fr-Fz Gab-Gan Gao-Gar Gas-Gaz Ge-Gl Gm-Gq Gr-Gred Gree-Gz Ha-Ham Han-H...

 

Vila Franca de Xira Wappen Karte Vila Franca de Xira (Portugal) Basisdaten Region: Lisboa Unterregion: Metropolregion Lissabon Distrikt: Lissabon Concelho: Vila Franca de Xira Koordinaten: 38° 57′ N, 8° 59′ W38.955555555556-8.9888888888889Koordinaten: 38° 57′ N, 8° 59′ W Einwohner: 18.336 (Stand: 19. April 2021)[1] Fläche: 212,87 km² (Stand: 1. Januar 2010)[2] Bevölkerungsdichte: 86 Einwohner ...

South Korean actress In this Korean name, the family name is Kim. In the stage name or pen-name, the surname is Joo. Joo Hyun-youngJoo in September 2023BornKim Hyun-young[1] (1996-01-14) 14 January 1996 (age 27)Paju, Gyeonggi-do, South Korea[2]Alma materKookmin UniversityOccupationsActresstelevision personalityYears active2019–presentAgentAIMC Korean nameHangul주현영Revised RomanizationJu Hyeon-yeongMcCune–ReischauerChu Hyŏn-yŏng WebsiteOfficial website...

 

Pour les princesses des Asturies sui juribus, voir l’article Prince des Asturies. Princesse des Asturies Couronne héraldique de la princesse des Asturies. Doña Letizia, dernière princesse consort des Asturies. Création 17 septembre 1388, par Jean Ier, roi de Castille et Léon Titre Altesse royale Premier titulaire Princesse Catherine de Lancastre Résidence officielle Palais de La Zarzuela modifier  Dans le cadre des monarchies castillane puis espagnole, l'épouse du prince des Ast...

 

Mexican actress, model and singer (born 1983) In this Spanish name, the first or paternal surname is Romero and the second or maternal family name is Martínez. This biography of a living person needs additional citations for verification. Please help by adding reliable sources. Contentious material about living persons that is unsourced or poorly sourced must be removed immediately from the article and its talk page, especially if potentially libelous.Find sources: Fernanda Rome...

2015 concert tour by Babymetal Babymetal World Tour 2015World tour by BabymetalPromotional poster for the tourLocationNorth AmericaEuropeAsiaAssociated albumBabymetalStart date23 April 2015 (2015-04-23)End date13 December 2015 (2015-12-13)Legs7No. of shows4 in North America10 in Europe21 in Asia35 in totalBabymetal concert chronology Babymetal World Tour 2014(2014) Babymetal World Tour 2015(2015) Babymetal World Tour 2016: Legend Metal Resistance(2016) The Babyme...

 

Season of television series PortlandiaSeason 5DVD coverCountry of originUnited StatesNo. of episodes10ReleaseOriginal networkIFCOriginal releaseJanuary 8 (2015-01-08) –March 12, 2015 (2015-03-12)Season chronology← PreviousSeason 4 Next →Season 6 List of episodes The fifth season of the television comedy Portlandia began airing on IFC in the United States on January 8, 2015, consisting a total of 10 episodes.[1] The series stars Fred Armisen and Carrie Br...

 
Kembali kehalaman sebelumnya